Thật ư? Thật ư? Phải là hồng phai xanh thắm. ( Đã có phim là "Minh Lan truyện")

Ngoại truyện



Ngoại truyện 1: Ngọc Châu


Ta tên Thẩm Ngọc Châu, trên ta là chị gái tên Trân Châu, phía dưới có hai em gái, lần lượt gọi Bảo Châu và Kim Châu. Chị gái và ta đều một mẹ sinh ra, hai em gái thì không phải.

Ta rất thông cảm cho em gái, vì có cái tên hàm ý vui mừng như thế mà từ nhỏ đến lớn đồ ăn cái mặc đều liên quan đến heo. Ví dụ, vòng tay bằng vàng hình đầu heo nhỏ, trên giày nhung thêu hình chú heo mập mạp bằng chỉ vàng.

Em gái rất sầu.

Ta cảm thấy không thể đổ hết lỗi cho cha được, ông vốn không biết đặt tên, tên của chúng ta đều do mẹ đặt. Chị gái là con cả nên được cái tên hay, ta đầu thai muộn một chút bèn chỉ có thể châu tròn ngọc sáng. Đương nhiên cũng không thể trách mẹ kế, bà căn bản không nghĩ sẽ sinh ra nhiều đứa trẻ như vậy. Trên thực tế, bốn đứa em trai khác mẹ của ta đều bị bà đặt tên càng thê thảm hơn, lần lượt là Đại Mao, Tiểu Mao, A Mao, Mao Mao. Tên của con chó nhỏ mà quản sự Chu nuôi còn hay hơn thế này.

Có câu tên xấu dễ nuôi sống, câu này thật chính xác, bốn em trai "lông" đều khoẻ mạnh hoạt bát, đặc biệt là Đại Mao, hắn vừa tròn mười tuổi, trong vòng mười bốn chiêu đã có thể hạ gục anh Cả. Cha ta rất vui vẻ, bảo đây là "hổ phụ sinh hổ tử", nhưng dì của chúng ta rất không vui, ép anh em chúng ta lại tới khóc trước linh vị mẹ ta.

Vì sao nói "lại"? Bởi vì dẫn chúng ta cùng làm thế này, cha ta nghe thấy thì tốt nhất, không nghe thấy thì khóc đến khi ông nghe thấy, dù có giả vờ không nghe thấy thì cũng phải khóc đến mức ông ấy không giả vờ nổi nữa.

Ta rất phiền chán.

Từ thuở nhỏ dì đã lải nhải với chúng ta, cần phải hết sức đề phòng vợ kế của cha, mẹ kế đều có bụng dạ xấu, em gái sẽ cướp đi sự yêu chiều của cha, em trai sẽ cướp đi tước vị của anh Cả, còn hay kể lại việc giật gân của phủ Ninh Viễn hầu ra để khuyến khích chúng ta không thể coi thường mẹ kế và các em trai, em gái.

Không chỉ mỗi thế, dì còn hay bảo chúng ta phải làm nũng với cha, nhân cơ hội đòi này đòi kia, nào là cửa hàng điền trang, lễ vật được ban tặng, càng nhiều càng tốt. Anh trai ta sầm mặt lại, chẳng biết làm sao, chị gái ta từ bé chính là tiểu thư khuê các, chỉ có người khác nâng như nâng trứng, chỉ có ta là thẳng thắn nói rằng, ta sẽ không.

Dì đành phải tự mình làm mẫu.

Thực ra dì nào có cách gì hay, chẳng qua là liên tục khóc lóc kể lể người mẹ đã qua đời của ta hiền lành thế nào, xả thân vì người khác thế nào, công khai hoặc ngấm ngầm nhắc nhở cha ta phải khắc ghi trong lòng, tuyệt đối không được quên. Ta rất ghét như vậy, cảm thấy mẹ ở dưới đất cũng không được yên ổn, chết rồi còn bị người ta lợi dụng.

Chị gái hết sức bất mãn vì ta tỏ ra không hợp tác, cho rằng ta là đứa không lương tâm, không biết phân biệt địch ta, thường cất giọng rưng rưng: "Chẳng lẽ em quên người mẹ đã qua đời sao?"

Lời chỉ trích này làm ta rất chột dạ, cũng rất tủi thân. Lúc mẹ qua đời, ta còn chưa nói được thành lời, vốn dĩ chưa nhớ việc, đối với mẹ, ta chỉ mơ hồ nhớ được cảm giác ấm áp dịu dàng. Ai nấy đều bảo mẹ ta rất tốt, là người hiểu biết nhất thiên hạ, điều này ta tuyệt đối tin tưởng.

Mẹ đương nhiên là người tốt, nhưng mẹ tốt thì liên quan gì đến dì, đến cậu mợ và các bà các cô nhà họ Trâu? Tiểu Hoa và Tiểu Hoàng là hai con mèo con cùng một mẹ, một đứa rất ngoan, thích nằm trong lòng ta phơi nắng, một đứa lại rất bướng bỉnh, cắn loạn khắp vườn, hay gây rắc rối.

Đến giờ cha vẫn luôn tin tưởng mẹ, yêu ai yêu cả đường đi là đúng, chẳng lẽ còn phải yêu cả nhà của họ ư.

Dù sao ta không tin người nhà họ Trâu, bao gồm cả dì.

Dì không thích vẻ bướng bỉnh của ta, mở miệng ngậm miệng chỉ có "cậu Cả cô Cả", ta cũng không thích bị dì nhắc tới.

Dì luôn bảo anh em chúng ta là cốt nhục của dì, có chúng ta, nàng chẳng cần gì nữa. Thế quanh năm suốt tháng dì tìm thầy thuốc, cầu đạo sĩ, mời ni cô, bỏ ra một đống bạc để làm gì. Vì sinh con mà uống thuốc đắng như thế, hơ cháy ngải cứu, đốt bản thân chỗ đen chỗ vàng, giống hệt con chó ghẻ của Tiểu Chu An làm gì?

Ta hỏi vú nuôi tại sao, vú nuôi mỉm cười từ ái, vuốt đầu ta: "Ngọc nhi thật thông minh, hiểu biết hơn anh trai và chị gái con nhiều lắm."

Lại còn thế này nữa. Dì còn định gả ta cho con trai của cậu?!

Suốt ngày nói nhà cậu tốt thế này tốt thế nọ, mợ thích ta thế này thế nọ, hỏi ta "đồng ý hay không", còn bảo cha rằng "Ngọc nhi hợp với Thuận nhi lắm, suốt ngày chơi với nhau, không nỡ rời xa, đúng là 'trời sinh một đôi'", ta vừa nói được hai câu "chúng ta ngày nào cũng đánh nhau, ta rất ghét hắn", dì đã tươi cười ngăn chặn ta, không cho ta nói nữa, còn bảo "trẻ con mà, càng quậy càng thân", tức chết ta mất!

Vú nuôi từng bảo, lấy chồng chính là ở cùng người khác cả đời, ai thèm ở cả đời với tên béo ị đó?

Anh họ là đứa con mà cậu về già mới có, vừa hống hách, vừa xấu xí, lại không thích đọc sách, còn hay bắt nạt người khác, chỉ có mỗi mợ coi hắn như tâm can bảo bối, ngay cả đứa hầu của ta hắn cũng dám đánh mắng, quả là ăn gan hùm mật báo! Hễ nhớ tới cái mặt giống đầu lợn của hắn là ta đã muốn nôn!

Chị gái còn kẻ cả khuyên ta, mở mồm ra là bảo ta phải ghi khắc ân tình của người mẹ đã khuất, ta bèn phản bác: "Chị quý họ tới vậy, sao không tự đi mà gả cho anh ta?"

Chị ấy giống như con ngỗng già bị bóp cổ, tức khắc câm miệng.

Hừ, của người phúc ta ai mà chẳng biết? Ta không tin nếu mẹ còn sống sẽ bắt ta gả cho cái hạng xấu xí tồi tệ đó! Dì biết mềm nắn rắn buông lắm, thấy chị gái một lòng muốn gả vào nhà cao cửa rộng liền coi thường ta nhỏ tuổi, dễ lừa gạt.

Trong số anh em chúng ta, người tin cậy dì nhất chính là anh Cả.

Các cậu còn nảy ý định để anh Cả lấy chị họ nhà họ Trâu về làm phu nhân.

Anh trai hoàn toàn bằng lòng, nhưng lại khiến cha tức điên người, nổi trận lôi đình, đuổi thẳng cổ chị dâu đang ở lại phủ về nhà, sau đó bắt buộc anh ấy không được gật đầu, trước khi anh ấy thành hôn con gái họ Trâu không được bước vào phủ, lại đánh anh trai mấy chục gậy, vả miệng dì mấy chục cái, chép kinh Phật ba trăm lần.

Dì khóc ngất lên ngất xuống, chỉ vào cha ta nói: "Hầu gia xem thường con gái họ Trâu thế ư, chẳng lẽ chị gái em không phải họ Trâu?"

Cha ta tức cười, lần đầu tiên tỏ ra cây ngay không sợ chết đứng: "Câu này là chị gái cô từng nói khi còn sống nhé. Cô ấy nói các anh trai của mình không nên thân, các chị dâu cũng không giống có thể dạy dỗ được đứa trẻ tốt, nâng đỡ chút cũng được, tuyệt đối không thể để con cái dính vào hôn nhân!"

Sau lần này, dì nhụt chí độ nửa năm, họ Trâu cuối cùng cũng yên ổn, không còn mưu tính hôn sự của anh em chúng ta.

Vú nuôi ôm ta, rơi lệ: "Mẹ con mạng khổ, vất vả từ bé, cả đời chưa được hưởng mấy hôm an lành. Lúc làm con gái thì lão thái gia yếu đuối, không có chủ kiến, lão thái thái lại mất sớm, anh trai chị dâu muốn lấy mẹ con để trèo lên cành cao, may mà mẹ con gả cho cha con. Sau khi kết hôn mẹ con lại lo liệu trong ngoài, thậm chí còn phải lo cho cả vương phủ?! Chị gái ta cũng từng khuyên mẹ con phải bảo trọng thân thể. Nhưng mẹ con mười mấy năm đều quen tự mình gánh vác mọi chuyện, bản tính đã thế làm sao thay đổi được!"

Ta nghe mà không hiểu lắm nhưng cũng dậy nỗi đau lòng, rơi nước mắt.

Chẳng bao lâu, chị họ kiêm công chúa giá lâm, trong nhà càng ồn ào hơn.

Anh Cả ta không biết nghe ai xúi giục, yêu cầu vợ phải coi dì như "mẹ chồng đứng đắn", chị dâu công chúa tức điên, suýt thì dỡ cả mái nhà ra, anh Cả sợ tới nỗi lăn ra đất. Có điều làm ầm ĩ cũng vô dụng, dì đâu chịu buông tay với anh Cả, thường thường nhúng tay vào việc trong phòng anh ấy, hôm nay đưa đứa hầu đến, ngày mai mời chị họ Trâu đến ở, cùng ôn chuyện cũ.

Chị dâu công chúa giận dữ bèn vào cung cáo trạng, cô hoàng hậu của ta cũng giận lây, sai ma ma đến đánh cho dì một trận, anh họ Nhị hoàng tử còn đưa ra ý kiến hư hỏng, thu xếp cho chị họ Trâu một mối hôn sự chả ra gì, nghe nói ông chồng tương lai chẳng những dưa vẹo táo nứt, gia thế cũng chẳng đâu vào đâu.

Chị dâu công chúa mỉm cười biểu thị với dì, sau này nếu dám giới thiệu cho ông xã chị ấy tình nhân, chị ấy bèn mời mẫu hậu thu xếp hôn sự cho thiếu nữ nhà họ Trâu (chị em họ Trâu nhiều lắm), xem mà làm đi.

Chị dâu công chúa ghê gớm, dì cũng không phải dạng vừa, minh thương không được thì chơi ám tiễn, âm thầm ngáng chân, sau này anh Cả hoặc lạnh nhạt công chúa, hoặc cãi nhau với công chúa. Trong một tháng thì có tới nửa tháng chị dâu phải cô đơn khó chịu một mình, nửa tháng cãi cọ ỏm tỏi với anh trai, thỉnh thoảng anh họ Nhị hoàng tử còn tới trợ giúp.

Một nửa phủ Thẩm rơi vào náo động, cha ta không chịu nổi bèn dời hẳn vào Nam viên ở với mẹ kế, hai người vừa vặn gắng sức sinh em bé.

Vì hôn sự của anh Cả không êm thấm, đến khi chị gái chuẩn bị làm mai, cha quấn chặt lấy mẹ kế để thương lượng.

Cô hoàng hậu vẫn rất thương chị gái, hai lựa chọn trên tay đều là thượng hạng, một là thế tử Vệ vương, cao quý ôn hoà, tài mạo hơn người, một là Bạc Tiểu tướng quân vừa lập công ở biên quan đã về triều, anh hùng thiếu niên, anh tuấn bất phàm.

Mẹ kế nói năng hào sảng, khen ngợi nhà họ Bạc: "Cuộc sống phải nhìn chi tiết. Nhà họ Bạc nhân khẩu đơn giản, lại giàu có, thanh danh tốt, ắt hẳn đỡ lo. Vệ thế tử dù tốt, nhưng dù sao cũng là thân vương tôn thất, thứ phi được khắc vào ngọc điệp phải có bốn vị, hoa thơm cỏ ngọt còn thiếu được sao? Huống chi là hoàng gia, nếu chịu tủi thân thì biết làm thế nào?"

Lần này ngay cả cha cũng thấy có lý, đáng tiếc chị gái và dì hoàn toàn không đồng ý, dì còn nói với chị gái mẹ kế không muốn chị gái gả cho nhà cao cửa rộng đấy. Chị gái hoàn toàn tin tưởng.

Sau đó, chị gái quả nhiên có một đống "chị em tốt", mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Sau đó nữa, vị Bạc Tiểu tướng quân vớ bở được cháu gái đằng ngoại của thím nhà họ Cố.

Mẹ kế còn từng đưa ta đón ăn tiệc cưới của họ, ta không nhìn thấy cô dâu mới, song nghe rất nhiều bà nhiều cô tán dóc, nói Viên nhị thái thái nổi tiếng biết sinh dưỡng, lại xinh đẹp hiền lành, con gái cả của bà ấy nhất định cũng tốt.

Sau này, vợ chồng Bạc Tiểu tướng quân quả nhiên hoà thuận, cũng quả nhiên có rất nhiều con cái.

Anh chị em lần lượt lập gia đình, mẹ kế thấy ta vẫn đùa nghịch lấm đầy bùn đất với Đại Mao hàng ngày, không ra thể thống gì bèn không chịu nổi, đưa ta đến lớp học dành cho con gái nhà họ Trịnh, mời tiên sinh quản giáo, tu dưỡng tính tình.

Dì lại trở nên sốt sắng, không dám nói với cha ta, sợ lại bị đánh bèn ậm ờ với ta cả nửa ngày, ta mất kiên nhẫn thốt: "Tiết Đại gia chẳng phải là tiên sinh tốt còn gì?" Dì: "...Đúng vậy."

"Nhà họ Trịnh sẽ ức hiếp ta ư?" Có dì nhỏ ở bên, làm sao có thể.

Dì: "Chưa chắc."

"Vậy tại sao dì không muốn con đi?"

"Phu nhân cố ý tỏ ý tốt với con! Muốn lung lạc con!"

Ta trợn mắt: "Thì sao chứ."

Dì đúng là cả nghĩ quá, rõ ràng không kém mẹ kế mấy tuổi mà cứ như già hơn mười tuổi.

Anh trai chị dâu thành hôn được mấy năm mà quan hệ vẫn một mực lạnh lẽo như băng, không có con nối dõi, thoáng trông mấy nhóc Mao càng ngày càng lớn, cha lại càng lo lắng. Năm ấy lão Vệ vương qua đời, chị gái và thế tử phải về đất phong, trước khi đi, cha cố ý gọi ba anh em chúng ta tới ăn một bữa cơm.

Sau mấy lượt rượu, người cha xưa nay luôn kiên cường cương nghị chợt bật khóc, người cha trước giờ luôn chân thành với anh trai đột nhiên khóc.

Anh Cả tức khắc hoảng hốt.

Cha bảo anh Cả: "...Coi như cha cầu xin con, hãy để dì Trâu đi đi. Con và công chúa không thể tiếp tục như thế... Công chúa không phải con dâu tầm thường, bây giờ nó giận hờn đầy bụng, chính mình không có con trai trưởng cũng không chịu nhận con thứ. Đến lúc đó, tước vị sẽ..."

Ta và chị gái đều hiểu, chị gái cũng khóc nức nở, khuyên nhủ: "Anh trai nghe lời cha đi, dì... dì vốn không phải người tốt... lòng dạ chẳng tốt đẹp đâu."

Cha chỉ là người đàn ông bình thường, không trung trinh cũng chẳng bạc tình.

Cha đương nhiên yêu thương mẹ chúng ta sâu sắc, nhưng nước chảy đá mòn, vợ kế con nhỏ ngày ngày bên người. Ông chỉ có thể thừa dịp tâm trí còn kiên định mà làm những việc cần làm, cho những thứ cần cho, hoàn thành tâm nguyện nhiều năm trước tự đặt ra với bản thân mình.

Cha khóc rưng rức, lảo đảo ra chiều muốn đứng dậy: "...Chẳng lẽ con bắt ta phải quỳ xuống ư! Cầu con, đừng để sau khi cha chết không còn mặt mũi nào gặp lại mẹ con..."

Anh Cả cuối cùng không chịu được, khóc lóc đáp ứng.

Hôm sau, chị gái rời khỏi kinh thành, theo chồng đến đất phong, cuộc đời này chị ấy không còn trở lại kinh thành nữa, sau này tốt hay xấu chỉ có thể dựa vào bản lĩnh của chính mình.

Cùng ngày, một nhóm đứa ở bà hầu đưa dì bị trói chặt chuyển ra khỏi phủ Thẩm, đưa thẳng vào nhà thờ tổ, canh giữ nghiêm ngặt.

Cô hoàng hậu biết được bèn cố ý gọi chị dâu công chúa vào cung hàn huyên một hồi, công chúa đỏ mắt trở về, anh trai đỏ mắt tiến đến, hai người từ từ mềm mỏng xuống. Mấy tháng sau, chị dâu công chúa có thai.

Cha cuối cùng thở phào nhẹ nhõm. Mẹ kế vẫn thản nhiên như trước, dường như vở kịch vui buồn này chẳng hề liên quan tới bà ấy.

Kỳ thực ta cảm thấy mẹ kế cũng không dễ dàng, xuất thân cao như thế mà tuổi trẻ lại phải làm vợ kế, con riêng lại là anh Cả không đáng tin như vậy, ngay cả thể diện ngoài mặt cũng không làm nổi, nếu là người yếu đuối hơn thì có lẽ sầu chết mất. Nhưng mà bà ấy vẫn có thể chỉ huy thị vệ giết tặc trong đêm tối, cầm kiếm sát khí đằng đằng, vừa uy phong vừa sôi nổi, so với dì và anh trai chị gái chỉ biết run cầm cập của ta giỏi hơn nhiều.

Mẹ kế thực ra không mấy am hiểu việc quản gia, cũng hoàn toàn không thích, bà ấy hướng tới cuộc sống bình thản nhàn nhã, tình thơ ý hoạ, có điều con cái suốt ngày vui cười đầy nhà, mỗi ngày từ sáng đến tối đều ồn ào náo nhiệt.

Mỗi lần bà kiểm tra xong việc học của ta, tay nâng một chén trà, vừa mới đặt mông xuống ghế, định vung bút vẽ vài nét tranh sơn thủy, hoặc làm vài câu thơ thì sẽ...

Đại Mao cầm bảo kiếm của cha đùa nghịch, cha không dám mạnh mẽ giành lại, chỉ hô to "Quế Phân, em mau đến đây", Tiểu Mao thì đang bôi mực nước toe toét lên người Kim Châu thành con mèo hoa, Kim Châu ngồi trên giường gào khóc, A Mao và Mao Mao quấn lấy nhau cấu xé, Bảo Châu thì bỏ quách việc tô chữ, bò lên đầu ta theo dõi tình hình chiến đấu lân cận, gào lên "mẹ, mẹ nghe mẹ nghe kìa, các anh lại đang đánh nhau", ta thì cáu kỉnh hét lên "ranh con chết tiệt xuống mau, không được kéo tóc chị, chị viết sai bây giờ"!

Trán mẹ kế hằn gân xanh, siết chặt cán bút phát ra tiếng kẽo kẹt, kết quả cuối cùng thường là bà ấy vận đan điền, bực tức gầm lên như sư tử Hà Đông, chấn động nóc nhà: "Cút hết ra ngoài cho ta!"

Hiện thực thật sự chênh lệch quá lớn với lý tưởng, mỗi lần Cố hầu phu nhân nhìn thấy tình hình này đều nhoẻn cười nhận xét.

Rất nhiều người đều bảo mẹ kế không thân thiết với ta, nói thực lòng, ta thấy bà ấy còn chẳng thân với hai con gái ruột lắm, thường ngày cũng hay giáo huấn. Tính tình mỗi người mỗi khác, trên đời có người như thím họ Cố, bẩm sinh đã có mắt cười, khoé miệng tươi tắn, hay cầm tay chị Dung dạy viết chữ thì cũng có người kiêu ngạo khí khái như mẹ kế, vĩnh viễn không thể tỏ ra mềm mại.

Ít nhất những việc bà ấy làm cho ta đều có ích.

Lúc đi học, ta kết giao được các vị chị em tri kỷ trọng tình, học được nhiều lý lẽ đối nhân xử thế, biết tính sổ sách, biết may vá quần áo đơn giản, gặp gỡ bề trên nhà khác cũng có thể ra vẻ đoan trang dịu dàng, cười không lộ răng.

Ngoại lệ duy nhất, khi ta mới vào học không lâu, ở hậu viện nhà họ Trịnh gặp một thằng nhóc kiêu ngạo, ngang ngược, hắn cười nhạo 'đàn bà con gái đọc sách làm gì, định đi thi Trạng nguyên à, vẫn nên về nhà thêu hoa đi'. Ta mắng lại 'có giỏi thì anh đi thi cho tôi xem'. Mở miệng đã không hợp liền xông vào đánh nhau một trận, hai bên thực lực ngang nhau, kết quả là đầu rơi máu chảy, trở về nhà còn ăn mắng.

Sau này cô nói cho ta biết, đó là cháu trai của mẹ kế, cháu nội của lão Anh quốc công. Mấy năm sau hắn đậu Võ trạng nguyên bèn tới cầu hôn ta. Cha ta mừng không khép được miệng, lập tức gật đầu đáp ứng, giống như sợ người ta đổi ý.

Sau khi định ra hôn sự, lần đầu tiên, cũng là lần duy nhất trong đời mẹ kế tìm ta tâm sự, bà nhìn ta, vẻ mặt phức tạp: "Con là đứa ngoan, lòng rộng rãi khoát đạt, không để bụng, đây là may mắn lớn nhất."

Biết ta sắp lấy chồng, Đại Mao tức thì khóc như cha chết.

Nghe nói lúc mẹ kế sinh Đại Mao rất gian nan, vốn dĩ rất thương nó, nhưng mấy đứa Mao mấy đứa Châu liên tục sinh ra thì liền ít để ý được tới nó. Từ bé đến lớn ta thân nhất với Đại Mao, cùng nhau đùa nghịch, cùng nhau bị phạt, ngay cả mấy lần thay răng sữa của nó cũng cùng nhau ném.

Đại Mao đau lòng gào khóc mấy hôm, giương ánh mắt hung hăng trợn trừng anh rể, còn coi người ta như trộm, tuyên bố nếu hắn đối xử tệ với ta thì nó sẽ cho hắn đẹp mặt!

Tình cảm giữa ta với chồng rất tốt, trước mặt mọi người ta cho hắn thể diện, hiền lành ngoan ngoãn, tuyệt đối nghe theo, sau lưng mọi người thì ngược lại, hắn hay nằm sấp trên giường làm ngựa cho ta cưỡi.

Nhiều năm sau, chúng ta ở riêng, hỏi qua ý kiến bề trên, ta đến nhà thờ tổ đưa dì ra, tóc hoa râm, mặt đầy nếp nhăn, dì đã già nua lắm rồi.

"Sau này ngài ở với chúng ta nhé. Chúng ta cùng đón giao thừa, ăn tết, trong nhà nhiều trẻ con, ngài giúp đỡ để ý cho con, con sẽ bảo chúng nó hiếu thảo với ngài."

Không dám nói sẽ cho dì sống vinh hoa phú quý, nhưng ít ra có thể vui vẻ, có con cháu ân cần hỏi han, hầu hạ thuốc thang trước giường.

Dì run giọng: "Con, con... Vì sao..."

Trước đây, dì không thích nhất là ta, ta cũng không thích dì cho lắm, bây giờ lại là ta phụng dưỡng dì.

"Không vì sao cả." Ta nói: "Ngài là em gái của mẹ con, lại nuôi dưỡng dạy dỗ con mấy năm."

Dì gào khóc, nước mắt như mưa.

Bà hoang đường nửa đời, cuối cùng lại có kết cục như vậy.


Ngoại truyện 2: Tú Xảo


Đình viện nhã nhặn xinh xắn, vài cây chuối tây đưa từ phía Nam tới đung đưa theo gió, cảnh xuân tươi đẹp lộ ra nửa cánh cửa sổ buông rèm, một người con gái ăn vận theo kiểu đã có chồng ngồi bên cửa sổ, cúi đầu chăm chú xe chỉ luồn kim. Một đứa hầu gái búi tóc hai bên bê khay trà lại gần, nhỏ nhẹ: "Mợ Tư nghỉ ngơi một chút đi, trưa rồi, để con xoa cổ cho ngài."

Thiếu phụ ngẩng đầu, cười nói: "Được." Đặt xuống khung thêu, cầm trà thổi nhẹ.

Đứa hầu gái xoa bóp vai cổ thiếu phụ, lầu bầu: "...Hõm vai cứng như gỗ thế này này, ngài không yêu quý bản thân gì cả, cậu Tư nhìn thấy lại thương, kiểu gì cũng hằn học với bọn con."

Thiếu phụ mỉm cười ngại ngùng, không hề trả lời.

Nàng yêu thích việc may vá từ bé, giỏi thêu thùa, từ khi vào cửa, thường hay làm ít trang sức quần áo cho chị dâu và cháu gái, còn cả cụ bà và mẹ chồng ở xa nữa, rất hay được khen ngợi.

Chồng mấy lần kêu nàng làm ít đi, nàng chỉ e thẹn cười, có lần nàng chợt hỏi: "Chàng có biết khuê danh của em không?" Chồng vốn tuấn tú, hiền lành lương thiện, song tự dưng đùa dai: "Tôi biết, gọi là chuột con." Nàng giả vờ giận dỗi, chồng bị đánh yêu bật cười ha hả mới nói: "Được rồi được rồi, tiểu sinh không dám nữa... Ừm, tôi nghe mẹ vợ gọi em là Nhị Nha."

Nàng ngượng ngùng: "Đó là tên ở nhà, còn khuê danh chính thức của em là Tú Xảo." Nàng duỗi đầu ngón tay từ tốn vẽ ra hai chữ trong không trung, hơi tỏ ra kiêu ngạo.

"Chị dâu Cả và chị dâu Ba giỏi giang, có học vấn, có kiến thức, em thúc ngựa cũng chẳng đuổi kịp, may mà còn có phương diện này thể hiện bản lĩnh..." Nàng nhỏ giọng: "Trời lạnh hơn, dì Hương đi đứng bất tiện, em làm cái băng bảo vệ đùi cho dì ấy."

Trong mắt chồng tràn ngập thương yêu, lại gần khẽ khàng bên tai nàng: "Luận đọc sách, luận xã giao tôi có mà thúc ngựa cũng chẳng đuổi kịp hai anh trai, chúng ta hợp cạ đấy, cả đời không xa rời nhau nhé."

Lòng Tú Xảo lan tỏa ngọt ngào, hạnh phúc như muốn bay lên. Chồng vừa dịu dàng săn sóc, lòng dạ lại nhân hậu, trong phòng không có kẻ khác, hai vợ chồng nhỏ từ khi thành thân đến giờ đều ngọt ngào như mật, chia sẻ mọi việc, chưa bao giờ to tiếng với nhau.

Ai nấy đều khen nàng may mắn, mấy năm nay, họ hàng nhà họ Thẩm có không ít người phát tài giống nhà nàng, nhiều chị em gả vào nhà cao cửa rộng, nhưng ít có người sống thuận lợi được như nàng.

Gia tộc họ Thịnh là dòng dõi thư hương, đàn ông nhà đều có công danh, các cô đi lấy chồng cũng vẻ vang, quan hệ thông gia không hề thiếu nhà hiển hách quyền quý, thật đúng là phú quý song toàn.

Cha chồng xử xự nhã nhặn, làm người đường hoàng (đối với Tú Xảo là thế), dù ít khi gặp con dâu nhưng thường xuyên dạy dỗ mấy con trai phải tề gia chu toàn thì mọi sự mới trôi chảy, tuyệt đối không được gây ra chuyện sủng thiếp diệt thê tai hoạ gia đình.

Chỉ vì vấn đề này, anh Ba tài hoa nổi tiếng kinh thành đã từng bị cha chồng trách mắng và đánh phạt không chỉ một lần, nhiều lần đều là chị dâu Ba đến cứu.

Tú Xảo tận mắt trông thấy hai lần. Một lần anh Ba lỡ kết giao với bạn xấu, bị dẫn vào lầu xanh, còn làm quen với một vị "kỳ nữ tử" bán nghệ không bán thân, làm cha chồng sợ tới xanh cả mặt, cấm cửa anh Ba không cho ra ngoài hai tháng, phạt đánh hai mươi gậy, sao chép gia huấn nhà họ Thịnh năm trăm lần, trong đó có một điều là con em họ Thịnh tuyệt đối không dính dáng đến phụ nữ lầu xanh.

Kỳ thực, Tú Xảo cảm thấy cha chồng hơi quá đáng, kẻ đọc sách hay thích học đòi văn vẻ mà, ngay cả anh Hai ruột kiêm tên mọt sách nhà nàng đều từng dạo lầu xanh, vui vẻ thôi mà, có cậu ấm nào sẽ coi như chuyện nghiêm túc chứ, cha chồng cần gì tức điên lên như thế, anh Ba dù sao cũng là người làm cha, chẳng nể mặt chút nào.

Nào ngờ cha chồng thở dài: "Con không biết, chúng ta trước kia có một ông chú, cụ để lại cho gia tài bạc triệu, còn cả con gái ruột, nhà cửa đang yên đang lành thế mà bị huỷ hoại trong tay phụ nữ lầu xanh đấy. Phận dưới như các con chưa từng thấy, nhưng cha thì chính mắt theo dõi."

Lần khác thì là vì trước khi tham dự kỳ thi mùa xuân độ hai tháng, một đứa ở chuyên hầu hạ ở thư phòng anh Ba đột nhiên có thai, lúc đó cha chồng đang ra sức chỉ dạy thúc giục con trai thi cử, nghe tin liền tức khắc nổi trận lôi đình, phạt bằng sạch tất cả những đứa hầu trong thư phòng anh Ba, còn đuổi đứa ở đến thôn trang, buông lời tàn nhẫn "nếu lần này không thi đỗ thì bỏ cả mẹ lẫn con."

Sau đó, anh Ba quả nhiên thi đỗ, còn đứng hàng đầu Nhị giáp.

Thực ra anh Ba hết sức thông minh, tài hoa trác tuyệt, làm người cũng nhiệt tình, từ lúc hai nhà Thịnh Thẩm kết thân đã sôi nổi lôi anh Hai mọt sách của nàng tới khắp nơi thấy việc đời, tham gia các loại hội hè, tiến cử đại nho ẩn sĩ cho, anh Hai Thẩm vô cùng vui sướng, liên tục bảo cha Thẩm mẹ Thẩm rằng hôn sự này quá là tốt.

Thứ anh Ba họ Thịnh thiếu chẳng qua là nghị lực tự thân, thường hay chủ quan lơ là, cần người cương nghị quả quyết kéo về đúng đường, ví dụ cha chồng, ví dụ... chị dâu Ba.

Thực ra dù anh Ba có lưu luyến hoa cỏ thì vẫn cực kỳ kính yêu chị dâu Ba... ừm, gần như là kính sợ ấy chứ. Có điều, chị dâu Ba xử sự công chính, thủ đoạn lợi hại, cũng xứng đáng với niềm kính trọng này.

Ban dầu, Tú Xảo thấy chị dâu Ba nghiêm nghị, nói năng thận trọng, không hoà nhã dễ gần như chị dâu Cả thì khá là căng thẳng, nhưng lâu ngày nàng mới phát hiện chị dâu Ba kỳ thực rất tốt, sẵn sàng kiên nhẫn dạy nàng xử lý công việc, xã giao tiếp khách.

Nàng vui mừng khấp khởi kể lại cho chồng, ai ngờ chồng bật cười: "Anh Ba như thế, chị dâu Ba mà không nghiêm mặt, siết chặt quy củ thì trong phòng đã trở nên lộn xộn rồi, còn chị dâu Cả... em gặp anh Cả rồi còn gì, người như anh ấy, nếu chị dâu Cả không niềm nở cười nói thì làm sao mà sống được."

Nhắc tới anh Cả, Tú Xảo liền le lưỡi, biểu lộ khó mà chịu nổi.

Con Cả nhà họ Thịnh ra ngoài nhậm chức, cho đến giờ, Tú Xảo mới chỉ chính thức gặp anh Cả một lần, lại cảm thấy còn khẩn trương hơn cả gặp gỡ cha chồng, mà không phải chỉ mình nàng cảm thấy vậy. Trước mặt cha chồng anh Ba thỉnh thoảng còn dám cười đùa vài câu, hai cha con đôi khi bàn luận thơ văn, nhưng trước mặt anh Cả, anh Ba liền ngoan ngoãn khoanh tay đứng im, không dám liếc ngang liếc dọc.

Năm đó con trai trưởng của anh Ba biết nói, nũng nịu đáng yêu hết sức, anh Ba thấy cha chồng thích bèn nảy ra ý định dẫn mẹ ruột từ thôn trang về: "...Nếu thật sự không thể thì để dì gặp thằng bé cũng được, tốt xấu gì nó cũng là cháu trai ruột của bà ấy..."

Nghe nói lúc đó anh Ba vừa nói vừa khóc.

Cha chồng cũng hơi mềm lòng, đáng tiếc anh Ba thật xui xẻo, đúng lúc anh Cả có việc gấp về kinh báo cáo công việc, biết được việc này liền liếc xéo qua, anh Ba bèn câm miệng.

"Dẫn về làm gì? Trở về lại gây hoạ cho người khác."

Anh Cả trước mặt mọi người thì không nói thêm gì, nhưng sau lưng thì gọi cả em út lại, ba anh em đóng cửa thì thầm: "Cậu xem trong đám chị em gái, ngoại trừ cái Tư, có đứa nào không phải vợ chồng mỹ mãn, con cái quanh gối. Chính vì dì Lâm nên nhân duyên của cái Tư mới như thế! Thân là thiếp hầu, chẳng những không có một chút kính sợ nào với thái thái và lão thái thái, còn mặc kệ cả quyết định của lão gia, tự ý làm bậy, ỷ vào cái gì, còn chẳng phải vì có con trai là cậu!"

Việc cô Tư nhà họ Thịnh, Tú Xảo cũng từng nghe qua. Năm đó cậu Lương ngay trước mặt mọi người ôm cô Tư, kết thành hôn sự, không thiếu bị người chê trách, dù hai nhà Lương Thịnh công bố đó chỉ là việc bất ngờ nhưng nhiều người đều lén lút bàn tán, nói họ Thịnh trị gia không nghiêm, để mặc con thứ vợ bé ngang nhiên tính kế công tử phủ Hầu.

Cuối cùng sau này kết thành thông gia, một chiếc khăn voan che phủ quá khứ, bàn tán mới dần dịu xuống.

"Cậu cũng là người làm cha, nếu tương lai có đứa vợ bé ỷ vào sự yêu chiều của cậu, con thứ lại triển vọng, làm xằng làm bậy một lần thì đã sao, dù sao chỉ cần mấy năm là được tha thứ, cậu nghĩ gia môn họ Thịnh có thể chống đỡ nổi mấy lần."

Anh Cả nói chuyện với ngữ điệu phẳng lặng nhưng lời lẽ như kim đâm, khắp nơi thấy máu, anh Ba lúc ấy mồ hôi chảy ròng ròng, sau đó gần như bật khóc.

Bấy giờ, anh Cả chợt dịu giọng, đích thân dìu anh Ba ngồi xuống cạnh mình, ôn hoà khuyên nhủ: "Chúng ta là đàn ông, thuở thiếu thời dựa vào xuất thân, đến khi trưởng thành phải dựa vào bản lĩnh. Cậu bây giờ không phải con trai dưới gối cha mẹ mà là người có vợ có con, tương lai phải đơn độc chống đỡ một gia đình, nếu không kiên định, chỉ biết xuôi theo tình cảm thì khác gì đàn bà con gái!"

"Nếu cậu hận anh, tương lai cha trăm tuổi, anh em chúng ta không qua lại là được. Dù chúng ta không phải cùng một mẹ sinh ra nhưng dẫu gì vẫn cùng chung huyết thống, chẳng lẽ tôi không mong hai cậu tốt? Không mong các cậu có thể làm vẻ vang gia tộc, nhưng ít ra cũng có thể thẳng thắn làm người. Nam tử hán đại trượng phu, đối diện thị phi, tình cảm phải đặt ra đằng sau, không phải tôi bắt cậu vô tình vô nghĩa, mà tình cảm cũng phải sử dụng hợp tình hợp lý!"

Nghe chồng bảo, đến cuối cùng, anh Ba ôm chân anh Cả khóc nức nở, liên tục kêu gào bản thân không phải, thề với trời sẽ không hồ đồ nữa, nhất định sẽ lấy gia tộc làm trọng, em út vô tội cũng bị răn dạy theo mà cất lời thề thốt.

Chồng về nhà cứ ngây ngẩn, hồi lâu mới phục hồi tinh thần lại, ôm cô vợ nhỏ thương mến khóc hu hu, Tú Xảo biết đây là lần cuối cùng anh Ba cố gắng đưa dì Lâm trở lại.

Nghe nói sau đó lão phu nhân cũng gửi một bức thư cho cha chồng, nói thẳng "chỉ cần ta còn sống, đừng hòng đưa dì Lâm về", đến lúc này ngay cả cha chồng cũng không hề nhắc lại nữa.

"Bà nội tại sao phải làm thế? Dù sao anh Cả đã thuyết phục anh Ba rồi mà." Làm vậy chẳng phải nhận lấy cháu trai ghét bỏ.

Chồng than thở: "Bà nội chính là người như vậy, dù không ưa nói chuyện nhưng trong lòng rất nhân từ. Bà sợ cha con anh em hiềm khích liền kéo hết về bản thân."

Tú Xảo mới gặp bà nội vài lần, tính cách nàng vốn ngại ngùng, lại không biết dẫn dắt chuyện trò, dù ở ngay trước mặt bà nội cũng không biết nói gì, cảm thấy bà hơi lạnh lùng, không dễ thân cận, nhưng hàng ngày lúc rảnh rỗi, chồng luôn bảo bà nội là người chân thật tốt bụng nhất nhà.

Nghĩ một vòng, Tú Xảo phát hiện bản thân quên béng mất Vương thị, làm vợ, có khi hầu hạ mẹ chồng còn quan trọng hơn cả hầu hạ chồng, nhưng nàng hoàn toàn không phải lo vấn đề này, bởi vì mẹ chồng của nàng đã ở nhà thờ tổ dưới quê nhiều năm.

Làm gì? Cầu phúc thay lão phu nhân.

Thật kỳ quặc. Dù ngây thơ như Tú Xảo cũng biết việc này không đơn giản, nhưng nàng nhát gan, việc không nên hỏi nàng tuyệt đối không nhiều lời.

Mẹ chồng trên danh nghĩa không ở, trong nhà lại có mẹ chồng thứ hai cần hầu hạ, đó là dì Hương.

Trước khi xuất giá, mẹ Thẩm từng lo lắng con gái nên sống chung với mẹ chồng thứ hai này như nào, nhẹ không được, nặng không xong, nào ngờ sự lo lắng này đều vô ích.

Dì Hương rất biết điều, luôn xưng hô Tú Xảo là "mợ Tư", thái độ cung kính khách khí, không khác với dâu Ba Liễu thị là mấy, không bao giờ xen lời vào việc trong phòng con trai một câu. Sau này Tú Xảo còn biết được, không lâu trước khi bọn họ thành thân, chính dì Hương nói với cha chồng thu xếp để hai đứa hầu ngủ của chồng ra ngoài.

Dì Hương không mấy xinh đẹp, kém xa dì Phương hầu hạ bên người cha chồng, nhưng cũng có vẻ thanh tú bình thản riêng, lúc cười lên giống hệt chồng, chỉ có điều đáy mắt đầy vẻ vất vả, hốc hác. Nhìn bà nhiều tuổi rồi còn thường thường đứng trước cửa phòng cha chồng kéo rèm, đưa nước bưng trà, Tú Xảo bỗng dưng lại khó chịu.

Người giỏi thêu thì thường ánh mắt tinh nhạy, Tú Xảo chú ý quan sát thân hình dì Hương rất lâu, sau đó lén lút làm một bộ áo trong, chất bông mềm mại, đường may mịn màng, giống như làm cho mẹ đẻ mình, mang lòng cảm ơn, từng đường kim mũi chỉ đều đặc biệt tỉ mỉ. Sau đó sai hầu gái vụng trộm đưa sang.

Dì Hương nhận quần áo nhưng không nói gì, chỉ nhìn Tú Xảo với ánh mắt càng ngày càng dịu dàng, xen ít vẻ cảm kích chua xót. Tú Xảo vui sướng, về sau thường làm ít đồ linh tinh, mũ ấm mùa đông, áo cộc tay mùa hè, dép mềm, lồng ủ tay xinh xắn... Dì Hương cũng lén sai người nhắn lại, bảo Tú Xảo đừng làm nữa.

Tú Xảo ngoan ngoãn nghe lời, bẵng đi một đợt, nàng lại làm tiếp. Không lâu sau đó chồng biết chuyện. Đêm hôm đó, chàng ôm nàng ngồi yên một lúc, kề cái đầu nặng lên hõm vai nàng, nàng có thể cảm thấy trên vai thấm ướt.

Vào cửa được hơn nửa năm, dì Hương đột nhiên bị bệnh.

Chẳng qua chỉ là cảm lạnh nhưng lại mãi mà không khỏi, ông thầy thuốc già nổi danh kinh thành nói "vất vả âu lo quá mức, lâu dần liền kiệt sức", khó khăn lắm mới lành bệnh, lại gầy rộc hẳn một vòng, quần áo rộng thùng thình.

Tú Xảo sực nhớ tới năm đó, Trâu phu nhân nhà Thẩm quốc cữu cũng là như thế. Thầy thuốc bảo bà ấy vất vả lâu ngày, mệt nhọc phí sức, trong người trống rỗng, ngay cả bệnh vặt cũng không chịu được.

Dì Hương khổ sở từ bé, không cha không mẹ bị bán đến đây, trong phủ không chỗ dựa dẫm, bà Cả tính tình bất thường, bà ấy phải xử sự cẩn thận, càng chưa kể tới dì Lâm được yêu chiều, bà ấy càng thấp thỏm suốt ngày, không dám nổi bật, dè dặt sống mười mấy năm, khó khăn lắm con trai mới lập gia đình, có công danh, bà ấy vẫn còn phải tiếp tục chịu đựng.

Tú Xảo xót xa vô ngần, có lần tới thăm bệnh, thừa dịp không có ai trong phòng, nàng nhẹ nhàng lại gần, nói nhỏ bên tai dì Hương: "Dì nhất định phải giữ gìn sức khoẻ, sống lâu trăm tuổi, bao giờ chúng con ở riêng còn cần dì chỉ bảo, dạy dỗ em bé nữa."

Dì Hương rơm rớm nước mắt, vỗ nhẹ tay nàng, khẽ khàng: "Con ngoan lắm, cậu Tư có thể lấy được con thật may mắn."

Nếu đổi thành quý nữ xuất thân danh môn vọng tộc như chị dâu Cả chị dâu Ba, biết đâu còn không hạ thân phận được, nhưng Tú Xảo hoàn toàn khác, nàng là con gái tri kỷ của mẹ Thẩm, chưa học quy củ cao cấp gì, lại quen làm nũng với cha mẹ, bây giờ đổi người cũng thấy quen thuộc.

Nàng thường nhân lúc không có người hay đến thầm thì bên tai dì Hương.

"Dì ơi, chồng con giống hệt trẻ con, hôm qua đọc sách đến nửa đêm không ngâm chân đã lên giường rồi..."

"Dì ơi, con bảo chàng ban đêm nhất định phải ăn khuya, nhưng chàng hễ đọc sách là quên tiệt, chàng không nghe lời con, ngài nhớ phải khuyên chàng nhé..."

"...Dì ơi, sắp đến sinh nhật chàng rồi, chàng thích ăn gì, chúng ta cùng nhau làm cho chàng ăn, được không?"

Áng chừng là có điều nhớ nhung, tinh thần dì Hương chậm rãi tốt lên, sau lưng người khác hai người càng ngày càng thân thiết, trước mặt mọi người thì vẫn không dám biểu lộ quá nhiều, mẹ chồng con dâu tựa như chơi trốn tìm, có bí mật nho nhỏ, ấm áp.

Người khác có lẽ không biết, nhưng Tú Xảo luôn cảm thấy chị dâu Ba thông minh nhanh nhẹn đã phát hiện từ lâu, chẳng qua không bao giờ vạch trần. Sau này, hai chị em thân thiết hơn, chị dâu Ba còn thở dài: "Thực ra dì Hương... em và cậu Tư như vậy đã là tốt lắm rồi."

Tú Xảo hiểu ý chị ấy.

Dù anh Ba giỏi hơn chồng nàng mọi mặt, nhưng có một khía cạnh lại hoàn toàn không bằng. Mai sau ở riêng, nếu anh Ba thật sự tiếp nhận dì Lâm không yên phận đó ra ở cùng, chị dâu Ba liền phiền phức. Hai phòng bọn họ vừa khéo trái ngược, Tú Xảo mong ngóng nhanh chóng được ở riêng, đưa dì Hương ra ngoài hưởng an nhàn, còn chị dâu Ba lại ngóng trông ở riêng thật muộn, tốt nhất có thể chờ đến lúc dì Lâm qua đời.

Cơ mà không hiểu dì Lâm ấy là kiểu người thế nào mà khiến người khéo léo giỏi giang như chị dâu Ba phiền muộn tới vậy.

Đến tận hơn một năm sau Tú Xảo mới có cơ hội nhìn thấy dì Lâm vang danh, nhân vật năm đó vô cùng lợi hại vẻ vang, ngay cả phu nhân chính thất cũng phải nhượng bộ!

Đó là một buổi sáng sớm ngày hè, chị dâu Ba theo thường lệ tới thôn trang thăm dì Lâm, Tú Xảo cũng về quê thăm nom vú nuôi đang bệnh nặng, đôi bên vừa vặn tiện đường, hai chị em dâu bèn kết bạn đồng hành.

Tú Xảo biết từ lúc bà nội và mẹ chồng rời phủ, dì Lâm hay gây phiền toái cho chị dâu Ba, hay nhờ người đến chuyển lời, thoắt ốm thoắt đau, thoắt lại dọa chết, chị dâu Ba không muốn anh Ba đến gặp dì Lâm bèn tự mình đi.

Loại việc thế này ắt hẳn chị dâu Ba không muốn người khác thấy, Tú Xảo rất thông minh, hạ quyết tâm trước khi đến nơi mỗi người một ngả, miễn cho chị ấy khó xử. Nào ngờ hôm đó trời nắng sớm, nàng vốn không quen khí hậu oi bức ngột ngạt ở kinh thành, kiệu lại xóc nảy, còn chưa được nửa đường nàng đã bị cảm nắng ngất đi, tức thì bất tỉnh nhân sự.

Đến khi nàng khoan thai tỉnh lại, phát hiện bản thân đang nằm trong một gian phòng, dưới thân là cái chiếu đơn sơ, đằng sau rèm trúc xanh loáng tháng có tiếng nói chuyện, Tú Xảo kiệt sức, nhất thời không lên tiếng nổi, chỉ biết âm thanh đằng kia bức rèm giống như tiếng tranh chấp.

"...Tôi khuyên dì ở yên đi, tướng công sẽ không đến đây đâu. Lão gia đã dặn dò, nếu tướng công dám đến gặp ngài sẽ bị đánh hai mươi gậy, nếu còn dám tái phạm thì ba mươi gậy, cứ thế mà nhân lên. Dì và tướng công là mẹ con ruột với nhau, đừng để tướng công phải chịu nỗi đau da thịt." Ngữ khí nhẹ nhàng, là giọng nói của chị dâu Ba.

"Thối lắm! Tao sinh nó nuôi nó, hai mươi gậy đã là gì, dù phải chết thay tao thì cũng là hiếu thảo!" Một giọng nói khàn khàn suồng sã vang lên.

Chẳng lẽ đây chính là dì Lâm? Sao lại thế nhỉ. Tú Xảo lơ mơ nghĩ.

"Dì vẫn không hiểu à. Nếu là người mẹ danh chính ngôn thuận, đương nhiên hiếu thuận đặt lên hàng đầu, nhưng với ngài thì, trước chữ "nương" còn có chữ "di" đấy. Nói khó nghe thì dù có một ngày tướng công có thể giúp mẹ già được phong cáo mệnh thì đầu tiên cũng là mẹ cả, nếu còn được ân điển thì mới đến phiên ngài. Nếu ngài không chịu được thì kiếp sau đầu thai nhất định đừng làm vợ bé cho người ta, dù có khổ sở đến đâu thì tốt xấu gì vẫn nên cưới hỏi đàng hoàng, như vậy sinh được con trai tiền đồ, ngài muốn đánh thì đánh muốn gặp thì gặp. Cũng đỡ phải ở đây mà tự hờn dỗi không đâu, phải không?"

Chị dâu Ba nói năng ghê gớm thật, ngày thường đoan trang thận trọng, chẳng ngờ ghê gớm lên lại kinh như vậy.

Tú Xảo mơ màng suy nghĩ, mấy câu sau chẳng nghe rõ, chỉ biết giọng nói khó nghe đó không ngừng mắng mỏ dọa nạt, chị dâu Ba thì cứ ung dung châm chọc lại, chiếm thế thượng phong.

"...Được, được, mày ỷ vào có chỗ dựa, dám vô lễ với tao, mày chờ xem! Đợi tương lai con tao ra ở riêng, đưa tao ra ngoài chăm sóc, để xem tao trừng trị mày thế nào?!"

Chị dâu Ba bật cười lanh lảnh, tỏ vẻ tự giễu, cất giọng lạnh nhạt: "Thật đến lúc đó, chỉ e ngài cũng không được như ý."

"Tiện nhân có cha sinh không mẹ dưỡng, mày nói cái gì?!"

Chị dâu Ba đanh giọng lại, từ tốn lên tiếng: "Dì Lâm, cho đến giờ dì vẫn không hiểu tại sao năm đó bị trục xuất khỏi phủ hả? Tướng công và cha chồng vốn là cùng một loại người, bọn họ coi trọng nhất không phải vợ hiền cũng không phải sủng thiếp mà là chính bản thân bọn họ. Cha chồng một lòng muốn làm rạng rỡ gia tộc, ngài cản đường ông ấy, đương nhiên phải tránh sang một bên, còn tướng công hả, hắn thích sống ngâm gió ngợi trăng, vô ưu vô lự."

Nói tới đây, chị dâu Ba càng châm chọc.

"Ở riêng cũng phải mười mấy năm sau, khi đó tướng công chắc đã có danh vọng, có địa vị. Hắn sẽ vì bà mẹ danh không chính ngôn không thuận mà gây khó dễ cho người vợ cưới hỏi đàng hoàng như tôi? Làm mích lòng gia tộc họ Liễu chúng tôi? Anh trai chú bác tôi chết hết rồi chắc?! Còn các con tôi nữa, đến lúc đó chúng đã lớn, đọc sách có công danh, lấy chồng tử tế, tôi là mẹ cả của chúng, bà là cái gì chứ?! Bà nghĩ xem, tướng công sẽ vì bà mà đắc tội tất thảy sao, mất thể diện với những bạn thơ, bạn cùng trường, đồng liêu sao?!..."

Tiếp đó hai người họ lại tranh cãi gì Tú Xảo liền không nhớ rõ, nàng mơ màng cảm thấy giọng nói khó nghe đó càng lúc càng nhụt chí, sau cùng nàng hoa mắt, lại mê man.

Lúc tỉnh lại, chị dâu Ba vẫn tỏ ra đoan trang cao quý như trước, mỉm cười ngồi bên giường bảo nàng: "Em chẳng được tích sự gì cả, hôm nay đừng chạy đi đâu nữa, về phủ đi."

Tú Xảo đương nhiên liên tục gật đầu, không hề hé răng nửa lời về chuyện mới nghe thấy.

Lúc được đỡ ra khỏi phòng, nàng bắt gặp một bà lão thô lỗ đứng bên cửa, thân hình mập mạp, trên gương mặt dữ tợn mơ hồ thấy được nét đẹp khi xưa, hơi giống anh Ba và cô Tư, hai bà hầu cưỡng ép đưa bà ta về phòng, ngoài miệng kêu "dì Lâm".

Hoá ra đây chính là dì Lâm? Tú Xảo thầm thất vọng.

Nàng nghe nói, hồi dì Lâm mới làm sai bị phạt tới thôn trang vẫn còn không yên phận, không ngừng đòi chết, tìm cách chạy ra ngoài. Khi đó Vương thị nắm quyền, muốn trừng trị kẻ thù ngày xưa quá ư dễ dàng, lấy cớ đề phòng dì Lâm đòi chết bèn nhốt vào một gian phòng đất chỉ có một cánh cửa sổ trên cao nho nhỏ, mỗi ngày chỉ cho ba bát mỡ lợn.

Dì Lâm đương nhiên không hề muốn chết, đành phải ăn, lại không được đi lại, càng ăn càng thèm, nửa năm sau liền biến thành bà béo.

Tú Xảo chợt rùng mình.

Thật âm hiểm, thật tàn nhẫn! Hủy hoại vẻ đẹp và dáng người mảnh dẻ mà người phụ nữ coi trọng nhất.

Nghe nói đây là ý kiến mà chị gái của mẹ chồng mình là Khang thị đưa ra, sau đó cũng chẳng hay bà dì này đi đâu, họ Khang cũng ít khi qua lại. Tú Xảo thở phào nhẹ nhõm, nàng sợ hãi người có thể nghĩ ra được chủ ý thế này.

Việc hôm đó nàng không tiết lộ với bất kỳ ai, chỉ có một lần về nhà mẹ đẻ từng kể lại cho mẹ Thẩm.

Mẹ Thẩm thở dài: "Chị dâu Ba của con thật không dễ dàng. Kẻ họ Lâm đó, con cũng không cần thương xót, loại người như thế đáng chịu báo ứng." Lại tiếp: "Con cũng đừng để tâm đến những việc này, quan trọng nhất vẫn là mau mau có thai đi!"

Ánh mắt Tú Xảo nhanh chóng thất vọng.

Gia cảnh giàu có, dòng dõi thanh quý, ra vào đều nở mặt nở mày. Mẹ chồng không ở, bà nội không ở, anh Cả chị dâu Cả cũng không ở. Cha chồng ôn hoà, anh Ba nhã nhặn, chị dâu Ba càng thân thiện. Nàng không cần lập quy củ, không cần hầu hạ mẹ chồng, không cần tranh cãi với chị em dâu, càng không phải đau lòng vì chồng trăng hoa.

Cuộc sống thoải mái nhàn nhã như thế, duy nhất không được hoàn mỹ chính là thành thân đã gần hai năm nàng vẫn chưa có thai.

Chồng và dì Hương đối xử tốt với mình đến vậy, thật có lỗi với bọn họ, Tú Xảo hàm lệ chủ động đề ra tìm đứa hầu béo khoẻ sinh con cho chồng, còn chưa nói hết câu đã bị dì Hương phản đối.

"Cô ngốc, có đầy phụ nữ kết hôn ba, bốn năm mới có thai kia kìa, hai đứa mới bao nhiêu tuổi, thêm nữa, trong nhà đầy con cháu, không cần hai đứa phải lo việc nối dõi tông đường. Con vội gì chứ!"

Tú Xảo cảm động nhưng vẫn bất an, càng ngày càng gầy rộc. Chồng lo lắng bèn quyết tâm đi cầu bà nội hỗ trợ, tìm Hạ lão phu nhân ở Bạch Thạch Đàm đến khám thử xem. Hồng nhạn đưa thư, lão phu nhân đồng ý, còn bảo Hạ lão phu nhân nửa năm nữa sẽ vào kinh, đến lúc đó bà sẽ cố gắng mời bà ấy giúp đỡ.

"Thật, thật sao?!" Tú Xảo nén nước mắt, lòng ngập tràn khao khát.

Để nàng yên tâm, chồng vỗ ngực liên tục tán dương y thuật của lão phu nhân một hồi lâu.

"Em không biết đấy thôi, năm đó chị Cả cũng năm, sáu năm không mang thai, Hạ lão phu nhân xem qua liền một lần được con trai, ba năm ôm hai đứa, bấy giờ chị ấy đều sắp bốn mươi tuổi rồi mà vẫn có thai được đấy! Mấy năm nay chúng ta tốn bao tiền mừng tuổi cho mấy đứa con chị ấy, em không nhớ à! Cho nên đợi lần này mời được Hạ lão phu nhân, chúng ta cũng phải ra sức sinh, tốt xấu lấy tiền vốn trở về, nếu không thì chẳng hoá bị thiệt à!"

Tú Xảo chất phác bèn nín khóc mỉm cười, chẳng nghi ngờ gì.

Mẹ Thẩm biết việc này liền cảm động đến rơm rớm nước mắt, liên tục bảo cha Thẩm: "Ông già, ông thấy tôi nói đúng chưa? Thế này mới gọi là dòng dõi thư hưởng, có quy củ, có tình người, những kẻ hở một tí là ba vợ bảy nàng hầu mới là giả vờ nhã nhặn, ngụy quân tử!"

Nói cười một lát lại không nhịn được kể lại chuyện con gái nhà họ Chung.

Lúc trước mẹ Thẩm định chọn con gái họ Chung làm dâu Cả, nào ngờ Chung phu nhân lại coi trọng con trai Chu đại nhân nhậm chức Tổng đốc Lưỡng Quảng, hiện đang ở kinh thành đọc sách. Dòng dõi thì tốt, nhưng nhà họ Chu là tứ thế cùng đường, ba phòng ở chung một nhà, trong nhà anh em chú bác chị em, chị em họ một đống, Tú Xảo nghe mấy lần đều không thể nhớ nổi ai vào với ai.

Chị gái họ Chung vốn thân với nàng, sau khi lấy chồng không ít lần về nhà mẹ đẻ khóc lóc kể lể sống ở nhà chồng thật mệt mỏi, mỗi ngày từ sớm đến muộn đều vất vả không được nghỉ ngơi một chút, ăn không ngon, ngủ không yên, gần như sắp kiệt quệ đến nơi rồi.

Tú Xảo cảm thấy không thể trách họ Chu được, nhà họ như vậy, vốn dĩ phải chọn dâu như chị dâu Cả và chị dâu Ba, được huấn luyện kỹ càng từ bé, biết xử sự thoả đáng, xã giao với cả đống họ hàng thoải mái, tuyệt không rụt rè, như nhà nàng và nhà họ Chung, nửa đường mới phất, làm sao mà so sánh được.

Nhớ năm đó cả nhà đoàn tụ ăn tết, lại đúng dịp lão phu nhân đại thọ, trong nhà mở tiệc ba ngày, mời gánh hát, mời xiếc ảo thuật, mời tăng nhân niệm kinh cầu phúc, trước sau phải có tới năm, sáu mươi nhà đến mừng thọ.

Mỗi nhà có lai lịch thế nào, nữ quyến bối phận thế nào, nên xưng hô thế nào, chỗ ngồi xếp thế nào, mấy nhà ngày thường bất hoà, không nên ngồi chung, mấy nhà là quan hệ thông gia, ruột thịt, họ hàng nên ngồi gần nhau, còn cả việc các vị lão phu nhân không ngửi được mùi nào, các vị phu nhân không ăn được cái gì, xe ngựa đằng trước dừng ở đâu, cho ngựa ăn cỏ ở đâu, chào hỏi gã sai vặt kẻ đánh xe, bà hầu bên trong nên đón khách thế nào, thu xếp hầu gái, đồ vật sát người ra sao...

Chị dâu thần kỳ của nàng, tóc mai không loạn, mồ hôi không thấm, trước sau tươi cười đúng mực dễ mến, thoải mái sắp xếp trong ngoài chu toàn hoàn mỹ, một bên căn dặn mười mấy bà hầu đứng ngoài cửa, một bên còn đến bàn các lão phu nhân chia thức ăn, cười nói trêu đùa, bao nhiêu vị cáo mệnh phu nhân đều khen ngợi.

Khi đó, Tú Xảo cứ ngây ra nhìn.

Còn chị dâu Ba thì, năm đó làm tiệc trung thu còn đang mang thai, nàng lại mới vào cửa, chẳng hiểu cái gì, chị dâu Ba lắc đầu than nhẹ, mang cái bụng to nhẹ nhàng thu xếp thoả đáng, nàng chỉ cần cầm đũa ngồi vào chỗ ăn là xong.

Chưa kể tới chủ nhân, ngay cả kẻ dưới cũng khác biệt một trời một vực, những nàng hầu ma ma đầy kinh nghiệm bên cạnh chị dâu Cả và chị dâu Ba, mỗi người đều là nhân thủ lấy một chọi mười, đều là nô bộc được huấn luyện kỹ càng truyền thừa bao đời.

Nhà nàng không thiếu bạc, nhưng làm sao có nổi những người như thế! Bên cạnh nàng chỉ có hai đứa hầu ngốc mới mua được hai năm, được cái trung hậu thành thật, có bà vú nuôi duy nhất dùng được thì dạo này lại về nhà dưỡng bệnh.

Được rồi, không so sánh nữa, người so với người thật tức chết.

Huống hồ Tú Xảo vốn không có lòng tranh cường háo thắng, như vậy, ngược lại chung sống hoà hợp với hai chị dâu.

Sống với tâm tình này, Tú Xảo tiếp tục trải qua những ngày đơn thuần vui vẻ, lúc thì thêu, làm túi thơm, làm quần áo, ăn ngon ngủ kỹ, bảo dưỡng cơ thể, bẻ tay tính từng ngày Hạ lão phu nhân vào kinh.

Có vẻ lòng không có lo âu, đợt này nàng béo hẳn lên, chồng thấy vậy càng vui sướng. Nàng càng ngày càng đẫy đã, thích ăn thích ngủ, hôm đó tự dưng ăn liên tục mười mấy quả hạnh.

Đúng lúc đó dì Hương đến tặng đồ, Tú Xảo nhiệt tình nhét nửa bát hạnh vào lòng bà ấy, "Dì ăn đi, hạnh ngon lắm."

Dì Hương ngại từ chối liền cười ăn một quả, tức khắc bị chua rơi nước mắt, kêu lên: "Chua như thế làm sao mà ăn nổi!"

Tú Xảo ngốc nghếch: "Chua ư, con có thấy đâu." Ăn ngon lắm mà.

Đôi mắt dì Hương chậm rãi ánh vẻ sung sướng, vuốt trán nàng, cười bảo: "Cô ngốc!" Nói rồi quay sang hỏi đứa hầu: "Cái đứa ngốc này, chủ nhân nhà mi bao lâu không có kinh nguyệt rồi?"

Đứa hầu ngơ ra: "Cái này á, a, ma ma đã dạy tôi, tôi có nhớ, dường như cũng lâu rồi, dì đợi chút, tôi về nhà xem sổ ghi chép."


Ngoại truyện 3: Thúy Thiền


"...Niệm tình chúng ta ở bên nhau từ nhỏ, cô giúp tôi nói với phu nhân, tôi và cậu Cả đều nhớ ân tình của cô." Một người phụ nữ trung niên đứng trên hành lang, lôi kéo một người quản sự ăn vận gọn gàng, thủ thỉ liên miên.

Quản sự nói nhỏ: "Tôi biết rồi, dạo này Nhị phu nhân bận, chứ không dù cô không nhắc, ngài cũng sẽ nhớ. Cô cả nghĩ quá, mấy năm nay, đọc sách đi học, Nhị phu nhân có bao giờ từng bỏ quên cậu Cả đâu."

Người phụ nữ trung niên dù phục sức không tầm thường, cả người đều mặc tơ lụa nhưng vẻ mặt hết sức rúm ró, nghe vậy ngượng ngùng đồng ý.

Hai người tách ra, quản sự xoay người bước ra sân, một cô hầu khác đuổi kịp, lầu bầu: "Chị Thúy Thiền tốt bụng quá, việc này mà nhắc tới không khéo, Nhị phu nhân nghi ngờ chị có ý đồ khác thì sao?"

Thúy Thiền than thở: "Thôi mà, dù sao cũng lớn lên bên nhau, bây giờ cô ấy cũng không dễ dàng."

"Hừ, chị ta khó khăn gì chứ, lúc trước đừng hy vọng hão huyền thì bây giờ có khi còn vẻ vang hơn cả chúng ta ấy chứ?"

Thúy Thiền lắc đầu: "Việc này chúng ta không nên thảo luận, cô cũng đi làm việc đi." Cô hầu cười nói: "Được, vậy việc tôi nhờ chị..." Thúy Thiền cười đáp: "Không quên đâu." Cô hầu liên tục cảm ơn, hào hứng bỏ đi.

Dõi nhìn cô ta rời khỏi, Thúy Thiền mới tiếp tục bước đến hướng nhà chính, trên đường bắt gặp đứa ở bà hầu, họ đều vội vã ngừng việc, gật đầu khom lưng chào hỏi nàng.

Thúy Thiền vừa bước vào nhà đã nghe thấy trong phòng có tiếng người, nghĩ một lát liền biết là bà chủ nhà mình đang nói chuyện với Ngô Nhị phu nhân dòng chính nhà họ Thịnh, nàng tức khắc dừng bước, nín thở đứng yên tại chỗ.

"...Chị họ giúp em đi mà, mấy đứa con em vừa rứt ruột đẻ ra liền bị mang đi." Ngô Nhị phu nhân khóc thút thít.

"Em đừng nỉ non nữa, mấy năm nay chị khuyên em thế nào, em nghe toàn để ngoài tai, toàn tưởng chị chỉ đang hù doạ em. Giờ thì hay rồi, chọc cho bác gái nổi trận lôi đình. Chuyện này nói nghiêm trọng thì là việc riêng của mẹ chồng con dâu nhà em, đóng cửa lại tự giải quyết, chị chỉ là phận gái đã đi lấy chồng, dù là anh em của chị cũng không nên xen vào, nói đơn giản thì làm bà nội muốn đích thân dạy dỗ các cháu, sai ở chỗ nào?!"

Ngô Nhị phu nhân không phải kẻ ngốc, lý lẽ thì đều hiểu nhưng vẫn đau lòng khóc lóc: "Em biết tại sao mẹ chồng giận dữ, nhưng, nhưng em còn biết làm thế nào, dù sao đấy cũng là mẹ ruột của em, chị họ..."

"Phải, em họ hiếu thảo, biết quan tâm đến mẹ ruột của mình, mẹ ruột của chị hiện giờ còn đang lẻ loi trong nhà thờ tổ dưới quê một mình đây." Nhị phu nhân chợt lạnh lùng xen ngang.

Ngô Nhị phu nhân lỡ lời, vội bảo: "Chị họ chớ trách, em vụng miệng quá, em ngốc quá! Xưa nay dì luôn thương em, mẹ em lại khiến dì chịu khổ, em, em thật không biết nên nhận lỗi thế nào." Nói rồi lại bật khóc: "Mẹ em tội lỗi trầm trọng, em đương nhiên biết, nhưng lần đó em đến Thận Giới ti thăm, thấy bà ấy vất vả không còn ra hình người, bà ấy cứ khóc với em, em là con gái, làm sao trơ mắt nổi..."

"Đã bảo em đừng đi, em cứ cố tình đấy chứ."

Ngô nhị phu nhân khổ sở: "Từ khi bà ngoại qua đời, cậu mợ bèn mặc kệ mẹ em luôn, anh trai em thì bị chị dâu giữ rịt ở nhà, trừ em, còn có ai...?"

"Hoá ra cậu Ngô thăng chức lại thuận tiện cho em đến Thận Giới ti thăm mẹ hả!" Nhị phu nhân chê cười, đoạn tiếp: "Nhắc đến mợ, nghe nói dạo này cậu em họ Vương lại có thêm con trai? Ánh mắt mợ tinh thật, chọn hai cô gái quả nhiên vượng phu ích tử."

Ngô Nhị phu nhân giật mình, ngẩng đầu thấy ánh mắt thâm ý của chị họ liền bối rối: "Chị, chị họ..."

"Em cũng vừa phải thôi, hai bác Cả đối xử với em tử tế, dù trong lòng tức giận nhưng chưa hề trút giận vào em, nhìn Nguyên Nhi, bố mẹ chồng nó vẫn là cậu mợ ruột thịt của chúng ta đấy! Em đúng là được voi đòi tiên, lúc thì đi thăm mẹ, lúc thì quấn lấy bà nội xin tha thứ, bà nội khó lắm mới về kinh một chuyến, dịp Tết lại bị em quỳ trước cửa Thọ An đường vừa khóc vừa cầu, thật đen đủi!"

"Hiện giờ lão phu nhân mạnh khoẻ, còn mở lời bảo dì về nữa. Mọi người đều vinh hoa phú quý, toàn gia mỹ mãn. Huống hồ, huống hồ đó là mẹ ruột của em..." Ngô Nhị phu nhân còn dợm nói tiếp, tức khắc lại bị xen ngang.

"Chị biết đó là mẹ em, ai chả biết đó là mẹ ruột em!" Nhị phu nhân cất giọng châm chọc: "Việc năm xưa chị không muốn lằng nhằng, bà nội không sao, đó là vì bà được ông trời rủ lòng thương xót, còn bác Khang rắp tâm ác độc thì chính là việc như đinh đóng cột. Hai phòng họ Thịnh chúng tôi thân thiết bao năm, còn gắn bó hơn cả anh em ruột thịt, phần tình nghĩa này phải lưu truyền đến đời sau. Bác trai bác gái tuyệt đối không vì em mà để hai phòng sinh hiềm khích! Em tỉnh ra đi, bất luận em có bao nhiêu cái cớ, chỉ có thể chọn một bên thôi, đừng tưởng ai cũng thông cảm, nhân nhượng em! Em là người thông minh, nên biết phải làm thế nào!"

Nói xong một tràng dài, Nhị phu nhân tựa hồ chán ghét, mở miệng tiễn khách, Ngô Nhị phu nhân đành kìm nén nước mắt, nghẹn ngào ra ngoài, Thúy Thiền nhanh chóng lùi lại vài bước, đứng trước cửa, vừa nhấc rèm vừa uốn gối thi lễ.

Tiễn Ngô Nhị phu nhân xong, Thúy Thiền mới từ tốn đi vào trong phòng, bà chủ đang ngồi trên giường, sắc mặt khó chịu, vừa nhìn thấy nàng liền kêu: "Sao giờ này mới về?! Làm tôi đợi mãi."

Thúy Thiền biết tính nết bà chủ, cười bảo: "Ái chà, Nhị phu nhân của tôi ơi, chủ nhân đang nói chuyện, tôi lại dám xông vào bẩm việc à, đáng thương tôi mệt nhọc chạy một chuyến còn phải chờ dài cổ ở bên ngoài."

Nhị phu nhân bị nàng ta chọc cười, nét mặt dịu xuống.

Thúy Thiền quan sát, đoạn nói: "Theo tôi thấy, Nhị phu nhân vẫn còn khoan dung nhân từ lắm, Ngô Nhị phu nhân mới suốt ngày đến nhà ta khóc lóc kể lể, nếu đổi thành người khác, có mà đóng cửa từ chối tiếp khách, hoặc mắng thẳng vào mặt rồi ấy chứ."

Nhị phu nhân tính tình cởi mở, giận nhanh nguôi giận cũng nhanh, nghe vậy bèn than vãn: "Tôi cũng thương Duẫn Nhi, mấy năm nay nó giúp đỡ người già yếu, phát cháo phát gạo, làm nhiều việc thiện. Ôi... Ổ quạ đen sinh ra phượng hoàng trắng, biết làm sao..."

Thúy Thiền cất giọng dè dặt: "Lần này... Ngô Nhị phu nhân lại làm sao...?"

Nhị phu nhân bực dọc: "Dâu nhà họ Khang bị nó phiền nhiễu liền xúi giục "muốn thả người khỏi Thận Giới ti nhất định phải được Cố Hầu giúp đỡ, hay là cô đến xin Cố hầu phu nhân đi", em họ còn tưởng thật, cắt ngón tay, viết huyết thư định đưa đến đất Thục. May mà bà hầu quản sự mà bác gái để lại kinh thành thông minh ngăn lại, tin tức truyền về Hựu Dương lại khiến bác gái sợ vỡ mật. Nếu tin này mà đưa đến nơi thật, em Sáu còn thôi, chứ em rể lại tưởng đây là ý kiến của cậu Ngô thì hỏng!"

Thúy Thiền giật mình: "Ngô Nhị phu nhân táo tợn quá."

"Hừ!" Nhị phu nhân tỏ ra hết nói nổi: "Lúc đầu tôi đã khuyên nó phải nghĩ thoáng ra, đừng lấy bản thân và quan hệ hai phòng ra mà cược, bất kỳ ai trong phòng thứ nhất đều sẽ không quan tâm tới nó. Bốn năm trước bác gái Cả giữ nó ở quê nhà một năm, sau khi trở về tôi khuyên bảo mãi, đừng có suốt ngày rầu rĩ nữa, bác gái đã đem lòng giận rồi. Năm ngoái nó tới cửa Thọ An đường quỳ lung tung, bác gái tức đổ bệnh, hai tháng sau liền chọn một đứa vợ bé xuất thân nhà lành vào cửa. Ôi, dạy mãi không sửa, tôi chẳng muốn nói lời thừa nữa."

Thúy Thiền thấy bà chủ tức giận đến khô cả miệng liền lẳng lặng đổ chén trà dâng lên.

"Thực ra việc này tôi biết trước rồi." Nhị phu nhân nhấp trà, thở đều đặn, cất giọng từ tốn: "Bác gái vốn có ý giữ hẳn nó ở lại quê, không cho về, sau nâng đứa vợ bé đó lên làm bình thê, giúp cậu Ngô lo liệu việc nhà. May mà cậu Ngô niệm tình, khuyên can mãi, khuyên bác gái "việc này chẳng ra thể thống gì" mới bảo vệ được nó."

Thúy Thiền ngồi lên giường, nhẹ nhàng đấm chân cho bà chủ, dịu dàng thưa: "Nhị phu nhân đừng tức giận, theo tôi thấy bác Cả đưa con cái Ngô Nhị phu nhân về cũng chưa hẳn chỉ vì trừng phạt. Chưa kể tới ân tình mà lão phu nhân nhà ta dành cho phòng thứ nhất, suy cho cùng, nhà họ chỉ là gia đình thương nhân, có mỗi Ngô Nhị gia ra làm quan, lại vẫn là quan võ. Nhưng chúng ta thì văn, võ có bao nhiêu? Thế hệ này hai phòng chúng ta vẫn thân như một nhà, nhưng nếu để Ngô Nhị phu nhân tiếp tục làm thế, tiếp tục mang con đến Thận Giới ti gặp bà ngoại họ Khang đang chịu khổ, gần mực thì đen, chưa biết chừng sau này các cô cậu chủ lớn lên còn âm thầm oán hận đấy!"

Nhị phu nhân vỗ chân nói: "Em nói đúng lòng tôi rồi! Tôi cũng đang lo như thế, may mà bác trai bác gái đều tỏ tường, thừa dịp mấy đứa còn nhỏ, mau mang về tự mình dạy dỗ mới phải. Có điều qua lần này, cậu Ngô đã đồng ý với bác gái, nếu còn có lần sau thì sẽ đưa vợ về quê nhà, nâng bình thê."

Nhị phu nhân thở dài, tiếp: "Bác Khang ác độc như thế, thật sự không thể thả ra, nghe nói ở trong đó mỗi ngày vẫn mắng mỏ cả nhà chúng ta đấy. Ôi, kể ra thì hôn sự của Duẫn Nhi vẫn do bà nội làm mai đấy, không biết bác Khang có còn nhớ ân tình của bà nội không."

Nói hồi lâu, Nhị phu nhân thấy Thúy Thiền mãi không lên tiếng liền bật cười: "Em làm sao thế, sao bỗng dưng im lặng."

Thúy Thiền nhẫn nhịn, vẫn đành nói ra: "Nghe phu nhân nói tới lương tâm, tôi không biết có nên chuyển lời giùm một người hay không."

Nhị phu nhân suy nghĩ giây lát, mặt dần trĩu nặng: "Duẫn Nhi mềm lòng, em cũng mềm lòng. Cô ta lại nhờ em xin tôi cái gì?"

Thuý Thiền cười khổ: "Dì Tống bảo, cậu Cả dần lớn, có vẻ không giỏi đọc sách, lại thích múa đao múa kiếm, nhà chúng ta không có ai, mời phu nhân liệu có thể mời sư phụ tới dạy võ không."

Nhị phu nhân hừ lạnh: "To gan lắm, cái gì cũng dám nói."

Thúy Thiền đứng im một bên, không nói không rằng.

Tuy hiện giờ nàng là người đắc dụng nhất trước mặt Nhị phu nhân, nhưng xưa kia, dì Tống mới là hầu gái cùng lớn lên từ nhỏ với phu nhân. Phu nhân nhà khác có lẽ thích đem đứa hầu thân thiết làm vợ bé cho chồng, nhưng Nhị phu nhân theo dõi sự ngang ngược của dì Lâm từ tấm bé, trong lòng không hề tin tưởng thê thiếp hoà thuận, dù lúc đó phu nhân sốt ruột việc con cái cũng chưa từng nghĩ tới mấy người hầu bọn họ.

Nào ngờ dì Tống thấy phu nhân sinh cô Cả bị thương cơ thể, nảy sinh ý đồ khác, nếu phu nhân đã không có con trai trưởng, như vậy con thứ là con Cả sẽ cao quý nhất, bèn chủ động đưa ra "giải mối lo giùm bà chủ"... Sau lần nọ, dù phu nhân không nói gì, hết thảy vẫn như thường, nhưng Thúy Thiền biết, bà chủ đau lòng.

Nhị phu nhân thoạt đầu dự tính tìm đứa hầu gái hạng hai, hạng ba có giấy bán thân của cha mẹ, anh em đều nằm trong tay mình, dù sao cũng là sinh con trai đầu lòng cho Nhị gia, không thể thân cận quá mức, nếu thuận lợi thì mọi người cùng vui, nếu bất ổn, dựa vào con trai đòi trở mặt thì cũng không đến mức tổn thương tình cảm từ nhỏ đến lớn.

Thúy Thiền hay nghĩ, ngay cả nàng đều phát hiện được tâm tư phu nhân, chẳng lẽ dì Tống lại không biết? Thế mà còn khăng khăng "người ngoài làm sao yên tâm được, nào bằng tôi và phu nhân tri kỷ, tôi sinh con trai khác gì đi ra từ bụng phu nhân chứ".

Lúc cậu Cả vừa sinh ra, Nhị phu nhân dĩ nhiên thở phào nhẹ nhõm, dì Tống cũng hân hoan đắc ý, nào ngờ người tính không bằng trời tính, sau này Nhị phu nhân điều dưỡng thân thể tốt lên, liên tiếp sinh con trai dòng chính, vợ chồng còn càng ngày càng ân ái.

Cứ như vậy, con Cả là con vợ bé tồn tại liền thành khó xử, dì Tống cũng càng ngày càng lo sợ bất an.

Hồi lâu sau, Nhị phu nhân mới buồn bã lên tiếng: "Em nói thật cho tôi nghe đi, mấy năm gần đây tôi có từng đối xử tệ bạc với mẹ con họ?"

Thúy Thiền nhỏ nhẹ: "Trời đất chứng giám, dì Tống làm tổn thương phu nhân trước, phu nhân đâu có phụ lòng cô ta. Đều là đứa hầu được nâng lên làm vợ bé, nhìn xem chi phí ăn mặc của dì Hương và cậu Sáu... Bọn họ nên biết đủ."

Đôi mắt Nhị phu nhân lấp lánh ánh lệ, song nhanh chóng biến mất, kéo tay nàng, nghẹn ngào: "May mà trước khi lấy chồng bà nội đưa em cho tôi, thời gian nan nhất có em ngày ngày khuyến khích an ủi tôi mới chịu đựng được."

Thúy Thiền cất giọng chân thành tự đáy lòng: "Lão phu nhân từng nói phu nhân là người lương thiện nhiệt tình, theo phu nhân chắc chắn không sai."

Chủ tớ hàn huyên cười đùa một lát, Thúy Thiền sực nhớ ra một chuyện: "Đúng rồi, phu nhân còn chưa hỏi tôi làm việc thế nào."

Nhị phu nhân xoa trán cắn môi, cười mắng: "Đều tại em, tại em quấy nhiễu nên tôi mới quên béng đi mất. Nói mau, nói mau, sáng sớm hôm nay chẳng phải bảo em đưa nhân sâm sang đó còn gì, em Tư thế nào rồi, sinh chưa."

Thúy Thiền mỉm cười: "Giày vò cả buổi sáng, cô Tư lại sinh con gái."

Nhị phu nhân kinh ngạc: "Lại là con gái! Đều bốn đứa rồi!"

Thuý Thiền cũng thầm than tiếc, bốn đứa đều thế, thế này hỏi trời trời cũng không biết.

May mà cô Tư được chân truyền ít bản lĩnh của mẹ ruột, cho dù mẹ chồng không thích vẫn được lòng chồng, chỉ mong bản lĩnh của dì Lâm đáng tin, để cô Tư có thể tiếp tục quấn lấy chồng sinh em bé.

Nhị phu nhân than thở một lát, cất giọng vô lực: "Sao lại thế nhỉ. Em Sáu liên tục sinh con trai, em Tư liên tục sinh con gái."

Thúy Thiền nhỏ giọng: "Nghe nói dì Tư bị sảy cái thai trước lại là con trai."

Nhị phu nhân nhếch miệng, tiếc nuối: "Lại nữa, hai năm trước nó lại sảy thêm một đứa, vẫn là bé trai đã thành hình." Năng lực sinh nở của Mặc Lan kỳ thực rất mạnh, bi kịch ở chỗ, sảy thai đều là con trai, sinh ra đều là con gái.

"Bao năm trôi qua, giờ đây tôi chẳng còn giận hờn nó nữa, chỉ mong em Tư biết điều, đừng tranh chấp với mấy đứa vợ bé nữa, cẩn thận chăm lo thân thể, sinh ra con trai mới được." Nhị phu nhân thở dài thườn thượt.

Thúy Thiền mỉm cười, mấy năm gần đây Nhị phu nhân càng ngày càng hiền hoà, ân oán trước kia với dì Lâm cũng phai nhạt theo gió, một lòng hướng thiện, tích phúc đức cho các con.

"Cô Năm tốt nhất, trai gái đều đủ cả, làm cô Sáu ao ước lắm."

"Con bé ấy cũng không bớt lo, em Sáu hâm mộ nó, nó còn hâm mộ ngược lại ấy chứ."

Nhị phu nhân hơi gắt giọng: "Em rể Sáu yêu thương em Sáu lắm, nâng trên tay sợ rớt, ngậm trong miệng sợ tan, không chịu tách rời một giây một khắc, em rể Năm thì thỉnh thoảng lại châm biếm. Lần trước quan trên của em rể Năm tặng đứa hầu, cái Năm làm ầm lên một trận, bây giờ chẳng biết ra sao rồi."

Thuý Thiền nghe cũng cười: "Cô Năm cũng không phải người hẹp hòi, chẳng qua cậu rể Năm muốn lấy vợ bé cũng phải để cô ấy đồng ý mới được, hai người trước đó chẳng phải tốt đẹp còn gì, vừa ngoan ngoãn vừa biết điều."

"Nó đang so bì với cái Sáu đấy!" Nhị phu nhân kêu lên: "Sao có thể so sánh với em rể Sáu được, nửa đời trước hắn nếm bao nhiêu đau khổ như thế, tính tình bướng bỉnh lắm, ghét nhất bị người ngoài nhúng tay vào việc trong nhà."

Nhớ năm đó Thục vương tặng hai mỹ nhân, em rể Sáu ngay lập tức đưa cho kẻ dưới chưa lấy được vợ, sau đó được tặng thêm bốn vũ cơ, em rể Sáu bèn cho ăn cho mặc tử tế, hễ trong nhà có yến ẩm liền gọi ra ca múa trợ hứng, nửa quan to quý nhân đất Thục đều từng thấy, thẳng thắn khen ngợi Thục vương phủ biết đào tạo người tài, sắc nghệ vẹn toàn.

Nhớ tới kẻ lúc xưa ở phủ Ninh Viễn hầu tên Phượng Tiên, Nhị phu nhân âm thầm buồn cười.

Sau đó Thục vương giận dữ, định ra đòn ngáng chân, kết quả bị Cố Đình Diệp giành trước dâng tấu chương tố cáo. Cậu Ba Trường Phong từng sinh động như thật giải thích qua ý chính của bản tấu chương này.

------

Thưa hoàng đế, thần đưa hết phụ nữ mà Thục vương nhét cho thần cho người khác, chọc giận Thục vương, thần biết sai rồi, hoàng gia ban tặng, cho dù là một cái bô cũng đâu thể tuỳ tiện đưa đi! Cho nên lần thứ hai Thục vương lại tặng phụ nữ, thần bèn giữ lại, còn thường xuyên sử dụng, khách khứa dự tiệc đều khen ngợi hết lời, nhưng Thục vương lại không vui, tỏ vẻ thần không hiểu chính xác cách sử dụng những người phụ nữ này. Hoàng thượng ơi, hiện tại Thục vương muốn quản lý đến đàn bà con gái trong nhà thần, sau này có phải còn định xen vào việc thần điều khiển quân đội hay không?

Hoàng thượng ơi, thần không muốn lấy vợ bé, thần trước kia chịu đủ gia đình không yên, cửa nát nhà tan, việc này ngài biết mà, thần không muốn lấy vợ bé Thục vương phi ép thần phải lấy, thần làm thế thì Thục vương được lợi gì chứ! Thần tận tâm lao lực giúp hoàng thượng, còn chẳng có thời gian bảo ban việc học cho con trai, cứ như vậy có khi lại phải đưa con trai vào kinh tiếp, giống anh Cả anh Hai nó bầu bạn với hoàng tử, có lão sư hoàng gia theo dõi, thần cũng yên tâm, hoàng thượng ngài xem... hay là tiếp nhận thêm một đứa nhé?

------

[Hoàng đế ngự phê cho Cố Đình Diệp: Thư đồng của hoàng tử đã đủ, riêng nhà chú đã chiếm hai đứa, rất nhiều lão đồng chí bất mãn tới tấp kia kìa, nhóc con còn lại thôi khỏi cần. PS: Thằng Cả nhà chú không tồi đâu, như ông cụ non, xử sự thoả đáng, rất được Đại hoàng tử của trẫm coi trọng, thằng Hai thì kiệm lời quá, làm các lão sư rất mệt mỏi, đợi vài tháng nữa anh vợ chú Thịnh Trường Bách về triều nhậm chức thì trả về cho cậu ta, bồi dưỡng tử tế.]

Hoàng đế đợi chính là cớ này, tức khắc hạ chỉ nghiêm khắc trách móc Thục vương, ngay cả hoàng tử đều không thể tùy tiện qua lại với quan viên, mi là phiên vương, năm lần bảy lượt kết giao với đại quan biên giới là có ý gì?

Ý ngoài lời chính là, trẫm đây chính là phiên vương lên ngôi, hơn nữa vừa lên ngôi đã giải quyết hai phiên vương khác, mi định bắt chước phỏng?!

Mấy năm sau, hoàng đế giảm hai phần ba đội binh mã bảo vệ của Thục vương, giành lấy quyền quản lý tiền đồng và quyền khai thác quặng, còn thuận tiện ngự ban cho Thục vương phủ mấy vị "phụ tá".

Mỗi lần nhớ tới thư nhà của em Sáu gửi đến từ phương xa, Nhị phu nhân liền muốn cười, trong lòng ấm áp.

Thuý Thiền lặng lẽ quan sát, thấy Nhị phu nhân mỉm cười, tựa như nghĩ đến việc thú vị, hoàn toàn quên chuyện khó chịu ban nãy, nàng thầm thở phào nhẹ nhõm, mỗi khi nhắc tới cô Sáu luôn có thể khiến bà chủ vui vẻ hơn.

Thấy vậy, Thuý Thiền lại cố gắng cười bảo: "Ban nãy mới trở lại phủ, tôi thấy lão Cát Đầu lại đang dỡ hàng chỗ cửa nách, nói Nhị gia nhà ta từ biên thùy gửi đồ về, trong đó có da cáo, màu sắc rực rỡ, tôi nhìn mà hoa cả mắt, đẹp lắm. Lão Cát Đầu nói là Nhị gia nhà ta đích thân săn, tự tay lột da, tìm sư phụ tốt nhất chế tạo, dự bị Tết năm nay làm khăn trùm đầu mới cho phu nhân."

Nhị phu nhân trong lòng ngọt như mật, má hây đỏ: "Đều là vợ chồng già còn bày trò, người khác thấy lại cười cho. Năm nay đã thu xếp chuẩn bị xong hôn sự cho Trang nhi, người phải mau về mới được, việc khác nào quan trọng."

Thuý Thiền thấy bà chủ nhoẻn cười liền yên tâm.

Nhị phu nhân vạch tay tính ngày: "Kể ra thì năm nay cũng lắm việc. Bên phủ Bạc chưa kể tới, Thực nhi đến lúc nên tìm tiên sinh đứng đắn rồi, không thể cứ học với mấy đứa nhỏ trong nhà mãi, sau tôi phải đến hỏi vợ Trường Bách xem, cậu Ba cũng phải vỡ lòng, dì Tống định mời sư phụ dạy võ, vậy mở rộng sân tập võ lớn hơn nữa, có lẽ tương lai trong số bọn trẻ lại có đứa thích học võ..."

Nghĩ ngợi hồi lâu, Nhị phu nhân sực nhớ ra một việc bèn căn dặn Thúy Thiền: "Phải rồi, đừng quên đưa một phần đồ cho sang bên phu nhân và chị dâu, cứ đưa trước mặt, khách sáo chút là được. Tiếp đó đưa một phần cho dì Trương, kín đáo vào, chọn đồ phải thật sự tốt. Ơ? Sao hôm nay phu nhân không có động tĩnh gì thế nhỉ."

Tuy từ khi lão Hầu gia đoạt lại quyền quản gia của bà vợ, lại bảo con dâu không cần ngày ngày phải đến vấn an, cơ hội đối mặt của mẹ chồng con dâu giảm mạnh, nhưng trước kia biên thuỳ gửi đồ về, mẹ chồng thính như chó săn, giả vờ giả vịt sai người tới hỏi thăm một phen, sốt ruột muốn lao tới xem xét, chỉ e con dâu độc chiếm.

Trên thực tế, mẹ chồng luôn khóc gào giậm chân, muốn con trai phải trực tiếp dâng đồ tốt cho mình, để bà ta phân chia cho con dâu các phòng, nhưng bị lão Hầu gia chỉ vào cái mũi mắng to một trận mới từ bỏ ý định này.

Thúy Thiền mỉm cười, kề sát tai Nhị phu nhân: "Đêm qua lão phu nhân lại tranh cãi với dì Trương, lỡ cào trúng mặt lão gia, bị lão gia lật tay giáng cho một bạt tai, lão phu nhân hiện giờ đang bực bội nằm trên giường đấy."

Nhị phu nhân chẳng hề có thiện cảm với bà mẹ chồng này, nghe vậy bèn khẽ khàng hỏi: "Lần này lại nằm mấy ngày?"

Thúy Thiền do dự: "Hay là để tôi đi hỏi thăm xem cái tát đó có nặng hay không?" Phải đợi dấu vết biến mất đã.

Nhị phu nhân búng nhẹ vào trán nàng, bật cười khúc khích: "Phòng ma ma cứ bảo em nghịch ngợm, quả không sai."


Ngoại truyện 4: Linh Nhi


Hà Hoa nhìn gương mặt dịu dàng thiện cảm của Linh Nhi bèn cảm động, tiếp nhận mau mắn ra ngoài.

Vừa đi vừa nghĩ, mọi người đều bảo mợ Ba là người khó hầu hạ nhất trong phủ, quả nhiên là đúng. Tính nết kiểu cách lại thích giả vờ giả vịt, không biết thông cảm cho người khác, mấy hầu gái ban đầu đi theo đến nhà chồng bây giờ chẳng biết ở phương nào, chỉ còn lại đúng Linh Nhi còn đắc dụng, làm trâu làm ngựa cho chủ nhân, tươi cười hoà nhã với mọi người, nói lời hay, nén giận, mợ Ba thì vẫn tuỳ tiện sai bảo như cũ. Chị Linh Nhi sắp ba mươi tuổi đến nơi mà mấy năm nay mợ Ba dường như chưa từng để ý xem xét việc hôn nhân cho chị ấy, cứ để ngày tháng trôi qua lãng phí.

Nghe nói nhiều năm trước, cậu con trai làm chưởng quầy bên ngoài của quản sự Hàn thấy Linh Nhi tốt bèn định cầu xin lấy vợ làm vợ, nào ngờ bị mợ Ba từ chối thẳng thừng, không biết có thật hay không nhỉ...

Nghĩ tới đây, Hà Hoa âm thầm thở dài, may mà mình có cha có mẹ, các anh trai cũng phấn đấu, chờ qua mấy năm rồi xin ân điển là sẽ được thả ra ngoài lấy chồng.

Trong phòng, Đình Xán càng ngày càng tức giận, ngồi phịch xuống giường, ngẩn ngơ giây lát, chợt rơi lệ: "Nếu mẹ vẫn còn, nhìn ta thế này, ngay cả đứa hầu cũng phải dỗ dành không biết sẽ đau lòng thế nào nữa."

Linh Nhi rót chén trà, không kịp tự lau mồ hôi, dâng trà khuyên nhủ: "Phu nhân chớ giận, hổ xuống đồng bằng bị chó khinh, hết cách. Dù sao Tam gia vẫn còn chút tình ý với ngài, đồ ăn thức uống, tiền tiêu hàng tháng đều chưa từng cắt xén, chúng ta phải nhìn vào mặt tốt chứ."

Đình Xán được dỗ dành hồi lâu mới miễn cưỡng lên tinh thần, hỏi: "...Đừng lải nhải việc vớ vẩn nữa, thế nào? Ra ngoài gặp được chị Hướng không?"

Linh Nhi lau trán, nhỏ nhẹ: "Thấy rồi ạ. Chị dâu Hướng nói, ngôn quan họ Hứa dù phẩm chất không cao nhưng khá có thanh danh trong số kẻ sĩ, nói chuyện có trọng lượng, khi xưa từng được Thái phu nhân nhà ta giúp đỡ, dù sao cũng phải trả ơn. Hắn sẵn sàng dâng tấu chương giúp chúng ta, có điều..."

"Có điều cái gì?" Đình Xán vội hỏi.

Linh Nhi tỏ ra khó xử: "Phu nhân nghĩ xem, đã muốn nhờ vả thì phải chuẩn bị tiền bạc. Tấu chương không thể một lần là dâng lên ngay được, có khi phải quanh co vài vòng mới được..."

Đình Xán hiểu rõ, vỗ bàn trên giường, hừ nhẹ: "Không quan trọng! Được rồi, chỉ cần có thể báo thù cho mẹ, bao nhiêu bạc cũng được!"

Linh Nhi cảm thấy lạnh giá: "...Phu nhân, việc này... Ngài suy tính cẩn thận hơn đi. Nếu công chúa mà biết, chúng ta, chúng ta biết làm sao?"

"Làm sao chứ?" Đình Xán chẳng thèm quan tâm: "Bà ta sẽ giết ta chắc?!"

Nhìn chủ nhân nhà mình vĩnh viễn vẫn tỏ ra tuỳ tiện mặc kệ hậu quả, Linh Nhi thật sự rất muốn nhắc nhở rằng, mấy năm nay phần lớn đồ cưới đều bị nhà họ Tần kiếm chác, chỉ còn lại chút bạc để lo lót tiêu dùng, nhưng chủ nhân không bao giờ để ý đến việc thường tình này, luôn cảm thấy bản thân có gia tài vô khối. Hành vi này khác gì lấy trứng chọi đá, Linh Nhi không nén nổi u ám mặt mày.

Đình Xán thấy sắc mặt nàng bèn cười bảo: "Không phải sợ, triều đại lấy hiếu trị thiên hạ, mẹ ta dù sai đến đâu thì vẫn là mẹ kế của Cố Đình Diệp, hắn dám coi thường luân lý, đầu độc mẹ kế, ta sẽ làm hắn không chịu nổi!"

Linh Nhi bật thốt: "Phu nhân, tốt xấu nghe tôi khuyên một câu, chúng ta không thể bất chấp tất cả chỉ vì báo thù. Việc gấp gáp trước mắt là ngài phải mau chóng sinh hạ con trai trưởng cho Tam gia, việc khác tạm gác lại đã!"

Vừa nghe lời này, Đình Xán liền tức giận mắng: "Đừng nhắc đến kẻ vô lương tâm đó! Nhìn xem hồi xưa cha ta đối xử với bác gái thế nào, gần mười năm mới sinh được anh Cả đấy nhé! Nếu trong lòng hắn thật sự có ta thì dù có con trai hay không cũng nên đối xử như một mới đúng! Mới được vài năm, hắn đã vội vã muốn có con, bất chấp ta sống chết nghênh đón con ranh đó vào nhà. Ta giờ mới nhận ra, kẻ vô lương tâm, còn chả xứng xách giày cho cha ta!"

Mỗi lần nói đến việc này, chủ nhân kiểu gì cũng phải lôi Cố lão Hầu gia ra so sánh, Linh Nhi hết nói nổi. Tam gia nhà họ Hàn vốn kết hôn muộn, sao có thể không mong ngóng con trai chứ. Hơn nữa chủ nhân không biết cách làm con dâu, suốt ngày ồn ào gây loạn, Khánh Xương công chúa lại đâu phải kiểu mẹ chồng tầm thường sẽ để ý đến cảm nhận của con dâu? Bà ấy đâu phải Thái phu nhân năm đó, bó tay hết cách với bà Tần lớn.

"Còn nữa." Đình Xán nỉ non: "Giờ mẹ ta và anh trai ta đều không còn, bên đó chỉ chờ ta chết, hai năm trước thánh thượng còn bảo con cháu họ Tần không nên thân bèn lấy lại tước vị, tịch thu gia sản, ta còn biết dựa vào đâu. Chi bằng nhân dịp này cố gắng chấn chỉnh uy phong, để cả phủ này không ai dám xem thường ta nữa! Khỏi cần khuyên nhủ thêm, hay là cô cũng tham sống sợ chết hả!"

Thấy chủ nhân cố chấp như thế, lại tỏ ra nghi ngờ, Linh Nhi định biện bạch vài câu, song chợt nghe Hà Hoa cao giọng: "Tam gia, a, ngài đến rồi!" Âm thanh lan vào phòng, chủ tớ đồng loạt kinh hãi, Linh Nhi mau chóng đứng sang một bên.

Hàn Thành mở cửa vào, tiến tới buồng trong, thấy vợ thản nhiên ngồi trên giường bèn cả giận: "Đang yên đang lành, mấy hôm nay cô lại làm sao không đến vấn an mẹ hả? Em Tư mới vào cửa, đang là lúc phải lập quy củ, cô làm chị dâu mà chẳng ra dáng, làm tôi tự dưng bị anh Cả anh Hai răn dạy!"

Đình Xán thấy ông chồng mấy ngày không gặp, vừa đến liền khởi binh vấn tội thì không nén nổi rơi lệ ào ạt, xót xa: "Tam lang thật tàn nhẫn, trời nóng như thế, biết thân thể em xưa nay yếu đuối, còn ép em đội nắng đến đó làm gì! Chàng muốn em chết sao!"

Người phụ nữ ba mươi tuổi tỏ ra uỷ mị như thế thật sự hơi chướng mắt. Hàn Thành nổi trận lôi đình, quát tháo: "Có phải mình cô biết nóng đâu, chị dâu Hai còn đang mang thai vẫn đến bầu bạn với mẹ kia kìa. Hơn nữa, trong phòng có rất nhiều chậu băng, làm sao mà nóng được! Trăm thiện lấy hiếu làm đầu, thời xưa có nằm băng chờ cá chép, chôn con vì mẹ, cô cũng đọc đủ thứ sách vở, tại sao không hiểu lý lẽ này chứ?!"

Đình Xán ghét nhất là đạo lý, bật dậy từ trên giường, gào khóc lớn tiếng: "Thì ra trên đời này chỉ có anh là người con có hiếu, nhưng anh không chỉ có mẹ, anh còn có vợ nữa! Cha em còn giỏi giang hơn chàng mà còn biết thương xót bác gái, vì vợ cái gì cũng chịu. Trăm năm mới tu được cùng chung chăn gối, em mới là người mà chàng nên tiếc thương nhất. Chỉ biết một mực ngu hiếu, không biết thương vợ đau khổ, thế mới là đàn ông à!"

Hàn Thành xoa huyệt thái dương, hắn thật sự không hiểu, yêu cầu vợ phải vấn an mẹ chồng, hiếu thuận với mẹ chồng vốn là cái lý đúng đắn khắp thiên hạ, không ai dám phản bác, nhưng riêng với cô vợ mình thì cứ như ông nói gà bà nói vịt.

Trước kia hắn thật sự đem lòng yêu thương Đình Xán.

Hắn e sợ người phụ nữ ghê gớm uy nghiêm như Khánh Xương công chúa, lại không thích kiểu con gái nhỏ nhẹ nhạt nhẽo, năm đó ở buổi thi hội Trâm Cúc đọc được bài thơ mà cô Bảy phủ Cố làm, hắn bèn hết sức rung động, lại nghe nói giai nhân xinh đẹp như tiên bèn vội vã xin mẹ đi cầu hôn. Đáng tiếc, sau khi thành thân hai vợ chồng chỉ hoà thuận được ngắn ngủi vài tháng, còn sau đó tất cả ngọt ngào đều bị những cuộc tranh cãi liên tùng tục thay thế. Vợ cứ như một đứa trẻ chưa lớn, không ngừng đòi người khác phải dỗ, phải chiều, hễ không như ý là khóc lóc nỉ non.

Hàn Thành vô cùng hâm mộ ân sư, sư mẫu vừa giỏi thơ văn ca hát, vừa biết lo liệu quản gia, lại có hai, ba nàng hầu xinh đẹp biết điều, cuộc sống phong nhã hứng thú, làm sao đến hắn lại biến thành thế này?!

Đình Xán vẫn khóc, càng khóc càng tức: "Sách ghi chớ nên lấy vợ bé, chàng mà xứng là người đọc sách à, trong phòng ba vợ bảy nàng hầu, bỏ bê vợ cả cưới hỏi đàng hoàng, liên tục sinh con với mấy đứa hạ tiện đó, nếu cha em còn sống chắc chắn đánh chết con rể mất nết như chàng..."

Hàn Thành cố bình tĩnh lại, ngồi xuống giường nói: "Xán Nương, em nghe cho kỹ đây, mấy năm nay mẹ luôn bất mãn với em, Nghiêm thị là mẹ chủ động đưa vào, em không nhìn mặt Phật cũng phải xem mặt tăng chứ, cứ thế này mãi..." Hắn nhớ tới lời nói mấy hôm trước của Khánh Xương công chúa, trong lòng chợt hoảng hốt.

"Nếu cứ thế này thì làm sao?" Đình Xán gạt tay Hàn Thành ra, cười lạnh: "Đường đường là phủ công chúa lại dám bỏ vợ hả? Dù thế nào tôi cũng là tiểu thư con vợ cả phủ Ninh Viễn hầu! Các người chịu mất thể diện, họ Cố chưa chắc đã chịu đâu! Anh mà xứng là đàn ông à, suốt ngày nhắc đến mẹ, không bảo vệ nổi vợ mình, hừ, năm đó bác gái tôi bảy năm không thoải mái, cha tôi liền..."

"Đủ rồi!" Hàn Thành không thể chịu nổi nữa, mấy năm nay vì chữ hiếu, hắn không hề nhắc tới Cố lão Hầu gia, hôm nay trời oi bức ngột ngạt, hắn cuối cùng không nén nổi cất giọng chế giễu: "Cha cô gặp phải con gái họ Tần mới là xui xẻo tám đời! Suýt nữa không có con trai nối dõi, sau cùng còn suýt thì cửa nát nhà tan, nhà cũ mấy chục năm bị anh Ba của cô thiêu bằng sạch! Tôi dù không giỏi giang bằng cũng chẳng dám học bố vợ!"

"Anh, anh dám chê cha tôi!" Đình Xán sửng cồ, nhặt nghiên mực trên bàn con trên giường ném tới.

"Lách cách", nghiên mực rơi xuống đất, mực bắn tung toé, may mà Hàn Thành lanh lẹ tránh được, nếu không ắt đầu nở hoa. Nhìn cô vợ tóc mai rũ rượi, lông mày dựng ngược lên, mặt mũi ngập tràn vẻ điêu ngoa dữ tợn, chẳng còn tươi đẹp động lòng người như năm đó, Hàn Thành giận dữ: "Cô, cô thật vô lý!" Sau đó phất tay áo đá cửa bỏ đi.

Đình Xán càng tức giận, đập phá tất cả những thứ ở trong tầm mắt rồi nhoài người lên bàn, khóc nức nở. Linh Nhi im lặng dặn Hà Hoa đi lấy nước, cẩn thận thu dọn phòng ốc.

Qua hồi lâu sau, Đình Xán chậm rãi ngừng khóc, ngẩng đầu lên, nghiến răng nghiến lợi: "Ta phải báo thù, nhất định phải báo thù! Bọn họ thấy ta không cha không mẹ không nơi nương tựa liền bắt nạt ta! Ta không dễ chịu cũng phải để bọn họ không dễ chịu!"

Chủ tớ nhỏ giọng thương lượng, Linh Nhi khẩn cầu: "Phu nhân, mất nhiều bạc lắm, chúng ta không lấy ra đủ, ngài suy nghĩ kỹ hơn đi."

Đình Xán suy nghĩ giây lát, quyết tuyệt: "Tối nay em gọi chị Hướng tới gặp tôi, tôi phải dặn dò tận mặt."

Linh Nhi bất đắc dĩ, đành phải đồng ý.

Đêm hôm đó, Linh Nhi mua chuộc được bà hầu gác cổng, năn nỉ cho người vào, bà hầu thấy là chị Hướng hay tới thăm mợ Ba cũng không nghi ngờ, thu bạc liền cho qua.

Chị Hướng thực ra mới hơn bốn mươi tuổi nhưng tóc đã hoa râm.

Đình Xán thấy bộ dạng già nua hốc hác của chị ta, lần đầu tiên biết quan tâm, thường ngày hễ gặp là khóc lóc, bây giờ không khóc nổi, đành che tay áo giả vờ: "Chị dâu Hướng, mấy năm nay chị chịu khổ quá."

Chị dâu Hướng quỳ xuống đất khóc kêu: "Có cô chủ thương yêu, cuộc sống vẫn còn dễ chịu, chỉ là lúc nào cũng nghĩ tới ân huệ của Thái phu nhân, nghĩ tới người chồng và mẹ chồng mất sớm, tôi, tôi, đúng là..."

Đình Xán cực kỳ hài lòng, mỉm cười: "Mẹ tôi thường tin tưởng Hướng ma ma nhất, quả nhiên người nhà chị đều tốt. Bây giờ tôi chỉ có thể dựa vào chị và anh em nhà họ Hướng, còn trong phủ này đều bắt nạt tôi..."

Nói rồi lại không nhịn nổi bật khóc.

Chị dâu Hướng lăn lê trên đất gào khóc: "Tiểu thư đừng làm tôi hổ thẹn! Ân tình của Thái phu nhân, mẹ con chúng tôi dù chết một vạn lần cũng không báo đáp nổi. Tiểu thư là kim tôn ngọc quý, Thái phu nhân nâng như châu ngọc mà nuôi lớn, họ Hàn thật quá đáng, không biết đối xử tử tế, khiến tiểu thư chịu ấm ức, đúng là đáng chết ngàn vạn lần!"

Đình Xán càng thoải mái trong lòng, Linh Nhi thấy chủ nhân vẫn không gọi người đứng lên bèn nhỏ nhẹ: "Chị dâu Hướng đứng lên trước đã, nền đá xanh này quỳ lâu ảnh hưởng sức khoẻ đấy."

Chưa đợi Đình Xán lên tiếng, chị Hướng đã hào hứng xua tay: "Không sao không sao! Được gặp tiểu thư, bà già tôi trong lòng còn ngọt hơn mật, quỳ trước mặt tiểu thư còn thoải mái hơn nằm bên ngoài! Tiểu thư nhà ta là ai chứ, tiểu thư vừa mới sinh ra, Thái phu nhân từng mời người xem vận số, họ nói tiểu thư là tiên nữ trước mặt Vương mẫu nương nương, hạ phàm tới trả ơn, ngay cả lão Hầu gia cũng tin sái cổ, dù hơi vất vả cũng có thể khổ tận cam lai."

Đình Xán dường như trở lại lúc chưa lấy chồng, trên có người cha cưng chiều, dưới có người mẹ toàn năng, xung quanh toàn kẻ hầu nịnh bợ, cô ta không khỏi lâng lâng vui sướng, kiêu ngạo vẫy tay, cười cao ngạo: "Vẫn nên đứng dậy đi. Linh Nhi, lấy ghế."

Linh Nhi nhanh nhẹn đặt ghế con xuống, chị Hướng ngồi ghé vào, Đình Xán mới hỏi: "Chị Hướng, chuyện đó... chị có nắm chắc không...?"

Chị dâu Hướng vội trả lời: "Vốn dĩ tôi không dám chắc. Nhưng gần đây bên Thục Trung thường đưa tới tin tức, nghe bảo Cố Hầu đang bất lợi mà? Hứa đại nhân nói, chi bằng thừa dịp tình hình này mà chớp thời cơ."

Đình Xán không hiểu chính sự, chỉ loáng thoáng nghe nói Thục vương hết sức bất mãn với Cố Đình Diệp, bèn cười bảo: "Nếu đúng như thế thì quá tốt rồi! Hừ, Cố Đình Diệp bức tử mẹ kế, đầu độc cháu ta, thiên lý không tha, chỉ hận nhà họ Hàn sợ phiền phức, không chịu nhúng tay vào, đến khi tấu chương được dâng lên, để ta xem hắn sẽ bị người trong thiên hạ thoá mạ thế nào!"

Linh Nhi nghe mà thầm nản lòng, nàng thật sự không hiểu, người tinh ranh tài cán như Thái phu nhân tại sao sẽ nuôi dưỡng được cô con gái ngây thơ không hiểu thế sự như thế này. Hắn là đại quan biên giới đang được hoàng đế trọng dụng, làm sao lại bị những tội danh giả dối hư ảo mà "chịu người trong thiên hạ thoá mạ" chứ, "người thiên hạ" lại rảnh rỗi thế chắc.

Đình Xán móc trong tay áo ra một bức thư, đưa cho chị Hướng: "Đây là thư ta tự tay viết, giao cho Hứa đại nhân, hãy nói nếu thành công ta sẽ cảm tạ thật nhiều."

Chị Hướng vâng dạ tiếp nhận bằng hai tay, lại nghe thêm nhiều lời dặn dò, vội vã rời phủ.

Đêm đó, Đình Xán ngủ cực kỳ ngon, mơ thấy nỗi oan của mẹ và anh trai được rửa sạch, hoàng đế nhốt Cố Đình Diệp vào đại lao, đày đến biên giới làm khổ sai, trọn đời không được về kinh, lại phạt ả họ Thịnh vào phường hát, mỗi ngày phải quyến rũ nịnh bợ nàn ông. Chính mình lại trở thành cô Bảy cao quý như trước kia, mẹ chồng và chồng đều một mực nghe lời, không dám làm mích lòng, đương nhiên, con ranh họ Nghiêm đừng tưởng được yên ổn, bị bán đến kỹ viện hạ lưu nhất, mấy đứa con nó sinh ra bị bán ra ngoài làm nô bộc cho người ta...

Đang say mộng đẹp, đột nhiên nghe thấy một tiếng ầm vang, Đình Xán tức khắc choàng tỉnh, bỗng thấy một đám người xông vào nhà, cô ta sợ tới nỗi co vào góc giường, dăm ba bà hầu cường tráng đồng loạt tiến lên tóm lấy, hoặc trói tay, hoặc trói chân, hoặc bịt miệng.

Đình Xán ra sức ngẩng đầu, giãy dụa chân, chợt thấy một bóng dáng quen thuộc đứng trước cửa, chính là Phan ma ma được công chúa trọng dụng nhất.

Phan ma ma thốt lạnh lùng: "Mợ Ba bị điên, mau đưa đến phòng vắng sau viện rồi mời thầy thuốc tới điều trị tử tế."

Đình Xán liều mạng ngước lên, cố gắng nhổ tấm vải trong miệng ra, đang muốn quát to, chợt thấy lá thư trong tay Phan ma ma, rõ ràng chính là lá thư mà mấy canh giờ trước tự tay đưa cho chị Hướng? Đình Xán kinh ngạc.

Phan ma ma cất giọng lạnh lẽo: "Mợ Ba yên tâm dưỡng bệnh, đừng cầm bút viết văn nữa."

Đình Xán tức khắc rõ ràng, ngẩn ra giây lát, la lối om sòm: "Chúng bay dám làm gì chị Hướng hả? Linh Nhi, Linh Nhi đâu?! Chúng bay làm sao dám? Cha ta là Ninh Viễn hầu gia, ta là con vợ cả nhà họ Cố!... Chúng bay là đồ hạ tiện, tại sao dám vô lễ với ta như thế! Linh Nhi, Linh Nhi mau tới đây!..."

Các bà hầu mặc kệ, ba chân bốn cẳng trói chặt lại, vùng vẫy một lúc, Đình Xán vô cùng hoảng sợ, bắt đầu khóc lóc nói lung tung: "...Tướng công, ta không biết, ta không biết gì cả, lá thư đó... Chàng hãy hỏi Linh Nhi... Nhất định là nó tự ý quyết định, đúng, là nó muốn trút giận giùm ta, nó cũng biết viết chữ..."

Ngay sau đó, cô Bảy họ Cố bị bịt miệng lại, chẳng thốt nên lời.
...
Cửa sổ trong nhà chính đóng chặt, ba người nhà họ Hàn hoặc đứng hoặc ngồi, Khánh Xương công chúa cầm mấy lá thư mỏng manh trong tay, bên trên chính là chữ viết của người vợ mà Hàn Thành quen thuộc.

"Sao nào? Tôi đã nói từ lâu rồi, đồ tai hoạ này không thể giữ lại được, con trai ông còn đòi thương hương tiếc ngọc, lần này hai cha con ông còn gì để nói không." Khánh Xương công chúa khoan thai phe phẩy mấy lá thư: "May mà con dâu tôi vốn ngu si, nếu hơi thông minh một chút, mua chuộc được ngôn quan, làm to mọi chuyện, sau này chúng ta có cần qua lại với Cố Hầu nữa hay không?"

Hàn Thành tuôn mồ hôi đầm đìa, không nói nên lời.

Hàn phò mã gần sáu mươi tuổi nhưng vẫn khoẻ mạnh minh mẫn, giáng cho con trai một bạt tai, phẫn nộ quát: "Nghịch tử! Mẹ mày nhắc mấy lần mày vẫn không nghe, giờ suýt thì ủ ra tai hoạ! Cố Đình Diệp và Vương Thiện Chi là phụng mệnh vào Thục, một kẻ giành lại binh quyền, một kẻ giành lại chính quyền thuế ruộng, tất cả đều là ý tứ của hoàng thượng, người như vậy chúng ta dám đắc tội sao?!"

Khánh Xương công chúa cất giọng buồn bã: "Có những việc, người ngoài không hay nhưng chúng ta lại không hiểu sao? Lần phủ Ninh Viễn hầu bị cháy to đó, hoàng thượng cố ý trút giận cho Cố Hầu, còn định trừng phạt cả mẹ vợ con. May mà thái y tới báo rằng mẹ vợ con sắp không qua khỏi, Cố Hầu mới xin hoàng đế để cho mẹ vợ con được ra đi thanh thản... Sao nào, đến lượt vợ con thì lại thành Cố Hầu bức tử mẹ kế, ha ha, thật là hoang đường!"

Dứt lời, bà mỉm cười tự giễu: "Quái lạ thật, tại sao khi trước tôi không nhận ra đó là một đứa ngu ngốc chứ?"

Hàn phò mã nhìn chằm chằm vào lá thư, bực dọc: "Còn về hai đứa con của Cố Đình Vĩ hả, vụ án đó chẳng phải đã có kết luận rồi còn gì, Dư các lão đích thân đưa Phương thị bị bỏ trói đến nha môn, Phương thị cũng đã nhận tội, bảo rằng tất cả đều vì trả thù Tần thị hãm hại, còn suýt thì lôi ra việc phu nhân đầu tiên của Cố Hầu giấu chồng ngoại tình, khiến các vị đại nhân Đại Lý tự sợ bắn mình, mau mau kết án. Việc này làm sao qua miệng vợ mày lại liên quan đến..."

Hàn Thành chầm chậm lau mồ hôi lạnh trên trán, sắc mặt dần bình tĩnh, nói nhỏ: "Con trai biết lỗi. Người vợ như vậy, con trai không cần, sau này nên làm thế nào, xin được cha mẹ chỉ dạy."

"Đây là việc nhà, con không cần nhúng tay vào."

Công chúa vươn đôi tay thon dài được chăm sóc tỉ mỉ, nhặt lên lá thư liếm vào ánh nến rồi ném xuống đất, ngọn lửa nhanh chóng lan ra mấy tờ giấy mỏng manh, đốt thành tro bụi.

"Bên Cố Hầu dặn, chỉ cần không phải bỏ vợ, không làm ảnh hưởng xấu tới thanh danh con gái họ Cố, việc còn lại hắn không quan tâm. Ta với cha con cũng không phải người nhẫn tâm, dù sao là kiệu tám người khiêng vào cửa, sau này vợ con hãy ở yên trong phòng vắng sau viện, đừng ra khỏi cửa."

Hàn Thành nhớ đến căn phòng lạnh lẽo ẩm ướt như ổ quỷ, có mấy bà hầu bị câm tính tình quái đản trông giữ liền hơi thương xót. Bấy giờ ngày hè chói chang, hắn lại cảm thấy lạnh run như cuối mùa thu, chóp mũi thoang thoảng hương cúc thơm ngát, dường như trở về ngày mùa thu năm ấy, hoa cúc nở rộ khắp núi đồi, ở thi hội lần đầu đọc được câu thơ của Đình Xán, say đắm mê mải.

Công chúa nhẹ nhàng lay con trai, dịu dàng bảo: "Con ta thật đáng thương, nhân duyên không thuận, ảnh hưởng chính sự, qua lần này, con đừng nhớ tới nó nữa, quan tâm tới sự nghiệp đi."

Cúc thơm đột nhiên biến mất, Hàn Thành định thần lại, tỉnh táo: "Con nghe lời mẹ."

Có lẽ, đó chỉ là ảo giác, có lẽ, hắn lấy nhầm vợ.

...

Nhà chính sân đằng Đông phủ Hàn, Nghiêm thị dịu dàng vỗ về con thơ đang say giấc nồng, nhẹ nhàng chỉnh lại góc chăn mới xoay người ra khỏi phòng trong, chợt thấy góc nhà đứng một bóng người lặng lẽ.

"Cô vất vả rồi." Nghiêm thị cầm lấy túi bạc trên bàn đưa tới.

Bóng người nọ lùi ra sau một bước, nhỏ giọng: "Nô tì không dám, chỉ xin ngài rủ lòng từ bi, thả tôi ra phủ."

Nghiêm thị nhoẻn cười, đặt túi bạc xuống. Cô ta có dáng người nhỏ nhắn xinh xắn, giọng nói ngọt ngào, cho dù đang nói tới chuyện chẳng hề vui vẻ.

"Cô đoán đúng lắm. Mấy bà hầu đi theo về kể, chủ nhân của cô trước khi bị bịt mồm còn la lối đổ tội cho cô đấy."

Gió đêm phe phẩy, ánh đèn loang loáng, ánh sáng chợt hắt lên gương mặt người đó, mặt mày trắng trẻo thanh tú, hoá ra chính là Linh Nhi!

Linh Nhi im lặng.

Nghiêm thị tựa như thích dông dài, nhìn nóc nhà, buồn bã nói: "Năm ấy Song Nhi bên cạnh phu nhân đẩy tôi một cái, hại tôi sảy mất đứa con trai đã thành hình, tôi đau đớn vô ngần, nhưng dù sao không có bằng chứng, nhưng phu nhân nhà cô mà chịu nói đỡ cho Song Nhi vài câu thì ước chừng nó cũng không mất mạng... Song mợ Ba không hề nói một câu, ôi, dù gì cũng là một mạng người, vậy mà cứ để mặc công chúa đánh gậy tới chết... Còn cả Mẫn Nhi, Lương Nhi... đều không còn."

Linh Nhi vẫn im bặt.

Nghiêm thị chợt quay lại nhìn nàng, mỉm cười: "Bây giờ cô lên tiếng được rồi đấy, chuyện này, rốt cuộc là Song Nhi giúp đỡ phu nhân nhà cô thấy việc bất bình chẳng tha, tự quyết định, hay là nghe theo lời của phu nhân nhà cô?"

Linh Nhi đanh mặt, buông giọng lạnh lùng: "Ngài chẳng phải biết rồi còn hỏi? Tôi lại bội phục ngài lắm, nếm bao đau khổ như thế mà vẫn chịu đựng được."

Nghiêm thị gượng cười, giọng nói vẫn ngọt như nước: "Hết cách, tôi không có số phận tốt như phu nhân nhà cô, đành phải cố gắng chịu đựng. Ôi, Tam gia vẫn vương tình với phu nhân, chỉ cần phu nhân yên tĩnh một chút thì e rằng tôi cũng bó tay."

Nhớ tới khổ sở trước kia, cô ta không khỏi xót xa, ngẩn ra hồi lâu, chợt ngước lên nhìn Linh Nhi: "Ta hỏi cô một câu cuối cùng, cô làm như thế không cảm thấy có lỗi với chủ nhân, bất an trong lòng ư?"

Linh Nhi ngẩng phắt đầu lên, ánh mắt sáng ngời như ngọn lửa, gằn giọng: "Tôi làm kẻ hầu bên cạnh phu nhân từ năm bảy tuổi, hiện giờ hai mươi bảy tuổi, trọn hai mươi năm chưa từng làm một việc có lỗi với chủ nhân, cũng chưa tính ủ mưu tính kế. Chị Song Nhi trước khi tắt thở đã bảo tôi rằng, trong số chị em chỉ còn mỗi mình tôi, nên báo đáp ân tình của chủ nhân đều đã báo đáp đủ rồi, sau này phải tự nghĩ lấy thân."

Nghiêm thị ngẩn người.

Giọng nói của Linh Nhi không hề có chút cảm xúc: "Mấy hôm nay, tôi khuyên phu nhân dừng cương trước bờ vực vô số lần, từng câu từng chữ đều phát ra từ đáy lòng, nếu có nửa lời giả dối, nguyện bị sét đánh, chết không toàn thây!"

Thở hắt ra một hơi, tựa như thả hết buồn bực trong lòng, Linh Nhi nhìn đối phương: "...Thôi, đừng kể tới chuyện này nữa, ngài nói thẳng đi, có thả tôi hay không."

Nghiêm thị bình tĩnh nhìn Linh Nhi: "Cô sẽ không vừa ra ngoài đã cắn ngược lại tôi đấy chứ."

Linh Nhi buông giọng cay đắng: "Kẻ phản bội chủ nhân còn có người tin sao."
...
Trời rạng sáng, ngay gần cửa sau phủ công chúa đỗ một chiếc xe ngựa mái tro, chàng thanh niên ngồi đầu xe ngựa sốt ruột dáo dác ngó nghiêng, qua hồi lâu mới vui sướng kêu lên: "Đến rồi đến rồi, mẹ, nàng đến rồi!"

Một người phụ nữ tóc hoa râm tức khắc xuất hiện, chính là chị Hướng, chị ta nhìn kỹ: "A, đúng là nàng!"

Linh Nhi mặc quần áo đeo trâm cài đơn sơ, cầm một bọc nhỏ ra khỏi cửa sau phủ công chúa, khẩn trương bước tới xe ngựa, chị Hướng rơi nước mắt: "Bé ngoan, con cuối cùng cũng đến rồi, mẹ con ta đợi cả đêm, chỉ e.. chỉ e vạn nhất..."

"Tốt rồi, đừng dông dài nữa, lên xe mau, chúng ta đi." Người thanh niên hân hoan vui mừng, vội vàng xuống xe, ân cần đỡ Linh Nhi lên xe, sau đó vung roi nhanh chóng xua xe bỏ đi.

Trong thùng xe, chị Hướng vỗ lên mu bàn tay Linh Nhi, rơm rớm nước mắt: "Chỉ sợ bọn họ không thả con ra, may mà ông trời có mắt... Con chịu khổ nhiều như vậy..."

"Con cũng sợ." Linh Nhi nằm trong lòng chị dâu, nhỏ nhẹ: "Con nói dì Nghiêm, nếu con chết trong phủ công chúa thì sau đó trong kinh thành sẽ nổi lên tin đồn khắp nơi, nói rằng Nghiêm thị hãm hại phu nhân, làm đủ việc ác. Con chỉ là đứa hầu nhỏ nhoi, khó làm tổn hại quá nhiều đến phủ công chúa, nhưng làm hỏng danh tiếng của một bà vợ bé thì vẫn thừa sức."

Chị Hướng vỗ tay cười nói: "Đúng vậy. Phu nhân sa sút, cha con họ Nghiêm lại đều có công danh, chị ta lại không muốn phù chính sao? Đây là lúc không thể mắc sai lầm."

Hồi lâu sau, chị ta than thở: "Con nói xem, cô Bảy còn sống được bao lâu?"

Linh Nhi thê lương: "Với tính cách của cô ấy, có lẽ sẽ không lâu lắm." Cuộc sống gian nan thống khổ như thế tuyệt đối không phải một đoá hoa trong nhà kính như Cố Đình Xán có thể chịu được.

Chị Hướng thấy Linh Nhi buồn bã bèn an ủi: "Con đừng để trong lòng. Ta hiểu tính tình cô Bảy, dù chúng ta không giúp đỡ thì chính cô ấy cũng sẽ nghĩ cách thực hiện, đến lúc đó chẳng qua lại không dưng khiến con bị chết oan mà thôi."

"Con không hối hận." Linh Nhi lắc đầu, hờ hững: "Còn ở bên phu nhân thì chỉ có một kết cục. Con, con vẫn còn nhớ đến cô Đình Yên."

Nhắc tới cô Cả phủ Cố sau khi lấy chồng không qua lại với nhà mẹ đẻ nữa, chị Hướng lập tức vỗ chân: "Không sai! Nhà họ Tần đều chẳng phải người tốt! Ta nghe người già kể, khi xưa mẹ ruột cô Đình Yên cũng nhất mực trung thành với chủ nhân nhà mình, vốn đã tìm được tấm chồng vừa ý, ai ngờ ma ốm đó hấp hối vẫn còn hại người! Để làm ghê tởm cho phu nhân Bạch thị, cũng để cậu Đình Dục có người chăm sóc, đã, đã..."

Chị Hướng nhớ tới dì Khâu mất sớm liền càng dũng cảm: "Họ Tần qua cầu rút ván, thoạt đầu lời ngon tiếng ngọt, nào ngờ Thái phu nhân vừa vào cửa liền ngứa mắt mẹ con cô Đình Yên. Ôi, đáng thương cho cô ấy, bị Thái phu nhân dỗ lão Hầu gia gả xa tít mù khơi, chẳng biết đời này có thể trở lại kinh thành được hay không!"

Linh Nhi gật đầu, nhẹ nhàng nói: "Chúng ta là kẻ hầu, trong mắt chủ nhân khác gì đồ vật, hữu dụng thì giữ lại, vô dụng thì bỏ đi." Nói tới đây, nàng sực nhớ tới một việc, lấy tay xoa nhẹ đầu gối chị Hướng: "Con nhớ ngài bị thấp khớp lâu năm, đêm qua lại quỳ một lúc lâu, bây giờ còn đau không? Con xoa cho ngài nhé."

Tay nàng vừa chạm đến đầu gối, chị Hướng liền bật thốt xuýt xoa, căm tức mắng: "Hai mẹ con họ đều cùng một hạng, không bao giờ coi người hầu như con người! Nhà chúng ta bán mạng cho họ cả đời, chồng ta bị liên lụy cứ thế bị đánh chết, đến khi mẹ chồng ta tắt thở Thái phu nhân vẫn còn không chịu trả lại công bằng cho nhà ta, tiếp tục để chúng ta hầu hạ khổ cực! Hừ!"

"Tốt rồi, quá khứ đã qua, chúng ta mau rời khỏi kinh thành, tìm nơi vắng vẻ ở lại." Linh Nhi nói: "Có bạc, chúng ta không phải lo lắng nữa."

Chị Hướng cười bảo: "Đúng vậy." Bỗng lo lắng hỏi: "Khánh Xương công chúa sẽ bỏ qua chúng ta ư? Đừng có tự dưng đổi ý đấy nhé."

Linh Nhi mỉm cười: "Việc lần này, nếu không có công chúa ngầm đồng ý, ngài cho rằng dì Nghiêm có thể thành công sao."

Chị Hướng giật mình: "Chẳng lẽ công chúa muốn trừng trị cô Bảy?"

"Nếu phu nhân biết điều, công chúa chưa chắc đã ra tay." Linh Nhi lạnh lùng thốt: "Nhưng phu nhân liên tục xúi giục Tam gia ngỗ nghịch mẹ ruột, công chúa đã chẳng thèm đoái hoài nàng dâu này rồi. Có điều Thái phu nhân mất, vì không muốn người ngoài nói phủ công chúa gió thổi chiều nào theo chiều ấy, mang tiếng sợ hãi quyền thế nhà họ Cố nên mới chưa muốn động thủ, mới lại kéo dài từng ấy năm."

"Con ngoan, con thật thông minh!" Chị Hướng mừng rỡ, ôm Linh Nhi nói: "Sau này cả nhà ta sống yên ổn với nhau nhé."

Linh Nhi giỏi nhất lựa lời, tỏ ra cảm kích: "Con còn lớn hơn cậu Thanh hai tuổi, may mà ngài không ghét bỏ, sau này con nhất định một lòng phụng dưỡng... phụng dưỡng..." Nàng đỏ mặt, ngại ngùng mãi.

Chị Hướng cười tủm tỉm: "Con gọi ta là gì."

Nếu như trước kia còn ở phủ Cố ăn ngon mặc đẹp, chị ta nhất định không thích Linh Nhi làm con dâu, nhưng mấy năm nay nhà cửa sa sút, làm ăn bị lừa, lao động bị chèn ép, trải qua khoảng thời gian cơm áo gạo tiền, chị ta mới phát hiện trong nhà nhất định phải có một nàng dâu giỏi giang bản lĩnh.

Ví như Linh Nhi, vừa thông minh vừa tháo vát, lại một lòng thích con trai mình, không nơi nương tựa, trừ nhà mình ra nó còn biết dựa vào đâu, mà tuổi nó lại cao, chỉ sợ đàn ông không cần nó ấy chứ, bởi thế sẽ càng cung kính bản thân mình gấp bội.

Linh Nhi lẳng lặng theo dõi sắc mặt hài lòng của chị Hướng, trong lòng thầm hiểu, trên mặt vẫn tỏ ra xấu hổ như thiếu nữ, dịu dàng nói: "Sau này con nhất định một lòng phụng dưỡng mẹ."

Cuộc sống là do con người tạo ra , một người chồng có sức khoẻ, biết nghe lời, một bà mẹ chồng không quá khó tính, nàng không tin bản thân sẽ sống không tốt.


Ngoại truyện 5: Tuyết tháng 2


Đã là tháng hai đầu xuân, một cơn gió xuân lạnh lẽo bất chợt ập tới, luồng hơi lạnh giá như một cái lồng thủy tinh bao phủ trên kinh thành, rõ ràng đang buổi ban ngày mà cơn rét lan toả từ lòng bàn chân lên trên. Hạ phu nhân đứng trước cửa nhìn về phía chân trời, dậm chân vùng khỏi cơn giá lạnh, dặn dò bà hầu mau đốt địa long: "Đốt thêm hai lồng than trong phòng các cô chủ cậu chủ, bảo mấy đứa hầu theo dõi sát sao vào kẻo lại cảm lạnh." Suy nghĩ giây lát lại dặn thêm: "Bên kia cũng thế, đừng để cảm lạnh rồi lại gây chuyện."

Bà hầu cười đồng ý, khen ngợi bà chủ vài câu nhân đức xã giao rồi lui xuống, bấy giờ một nàng hầu trang điểm đẹp đẽ hào hứng chạy tới hành lang, cười nói vọng vào trong phòng: "Thưa phu nhân, ông An phòng nuôi ngựa mới về, bảo rằng lão gia sắp tới cổng thành, chỉ chờ dỡ mấy xe thuốc vào trong cửa hàng là về nhà."

Hạ phu nhân vui mừng: "Lần này đi xa nhưng lại về nhanh, đi nào, bảo các cô chủ cậu chủ lão gia sắp về rồi, mau chóng lấy chữ viết và tranh vẽ mang ra, để lão gia được vui vẻ."

Nàng dâu lanh lợi đáp ứng.

Ông chủ gia đình đi xa trở về, Hạ phu nhân đương nhiên bận bịu, chuẩn bị mấy thùng nước nóng to, rải thảo dược giúp giải toả mệt mỏi, chuẩn bị áo lót sạch sẽ và áo choàng ngoài, hâm nóng giường đệm, nghĩ có khi tầm này hắn vẫn chưa dùng cơm, bèn sai nhà bếp chuẩn bị mấy món ăn mà hắn thích, bọn nhỏ tới tấp đến, bèn bảo vào trong phòng chờ trước...

Bận bịu hồi lâu, gần tối, một bà hầu mồ hôi mồ kê nhễ nhại lao vào, vừa tức giận vừa khinh thường nói: "Phu nhân, lão gia về rồi, nhưng kẻ gây chuyện kia lại làm loạn kìa! Sai đứa hầu chặn đường, vừa thấy lão gia liền vừa khóc vừa gào đòi phải sang nhìn một cái, nói gì mà dì Tào sắp ốm chết đến nơi rồi!"

Trò này bên kia chẳng phải lần đầu diễn, Hạ phu nhân vốn mặc kệ, dù sao chồng cũng không thích bên kia, nhưng bây giờ thấy hai đứa con đều đang mong ngóng cha về, nàng không nhịn nổi cơn tức.

Nhà mẹ đẻ Hạ phu nhân theo nghiệp binh đao, nàng theo phụ huynh mưa dầm thấm đất từ nhỏ, tính khí dữ dằn mạnh mẽ, tức khắc đứng lên, xoay người lao ra khỏi cửa, lúc bước ra còn vung tấm rèm gấm kẹp bông dày kêu vang dội.

Nhà họ Trạch nhỏ xinh, tổng cộng ba sân, chẳng qua có vài bước đường Hạ phu nhân liền tới chái phòng trong viện nhỏ phía Tây, chẳng đợi hầu già lên tiếng thông báo, nàng đã sải bước tiến vào, vừa vén rèm lên liền thấy một người phụ nữ ngồi tựa đầu giường ăn vận hớ hênh, ngực lộ một nửa, bầu ngực mịn màng, áo yếm đỏ tươi.

Dì Tào trông thật đáng thương, tóc mai rối loạn, một tay vỗ ngực, một tay kéo chặt người đàn ông bên giường, buông giọng xót xa: "Anh họ, anh họ, anh thật tàn nhẫn, mấy ngày nay chẳng đến thăm em..."

Người đàn ông phong trần mệt mỏi, giọng nói đầy uể oải: "Tôi ra ngoài mua hàng, đến thăm cô kiểu gì."

Dì Tào rưng rưng nước mắt nhìn chăm chú vào hắn, giọng nói càng nhu mì: "Vậy lần trước thì sao, nếu không phải em mặt dày, chỉ e anh họ chẳng thèm ngó ngàng gì tới em! Dù em chết rồi chỉ e cũng chẳng ai hay!"

Người đàn ông đặt tay bắt mạch, thờ ơ: "Cô không sao, máu hơi ứ đọng, uống thuốc là khỏi." Chết hay không chết, mấy năm nay hắn nghe nhiều, chai rồi.

Dì Tào thầm hận, nếu là đàn ông tầm thường còn thôi, có điều hắn lại là thầy thuốc cao minh, muốn giả ốm cũng không xong, thoáng thấy hắn định đứng dậy, chị ta vội kéo lấy tay áo hắn, nỉ non: "Anh họ thương em với chứ!"

Tiếp đến chị ta dựa nửa người lên người hắn, ẽo ợt kêu: "...Từ khi dì qua đời năm trước, anh họ chẳng thích gặp em, em biết em có lỗi, mấy năm nay em làm ảnh hưởng đến anh, không uống thuốc thì chính là dùng đồ bổ, có lẽ anh đã ghét em từ lâu rồi. Nhưng mà em lại chẳng muốn buông xuôi, chỉ mong được bên anh họ thật dài thật lâu, chị gái lại chẳng cho em bước vào chỗ chị ấy nửa bước..."

Hạ phu nhân chẳng nghe nổi nữa, hất mạnh rèm lên, xông vào, lôi dì Tào ra khỏi người đàn ông, đẩy mạnh xuống đất, mắng: "Tiện nhân! Cô còn cần thể diện không hả? Cởi quần áo, lộ bộ ngực, mẹ chồng qua đời mới được mấy tháng hả?! Tướng công còn đang giữ hiếu đấy, cô bỉ ổi đến mức dụ dỗ đàn ông thế hả! Đang có nạn đói nghiêm trọng đấy, tôi ra ngoài tìm mấy thằng đàn ông khoẻ mạnh đến diệt hoả cho cô nhé! Cần gì làm cho tướng công mang tiếng bất hiếu!"

Dì Tào xưa giờ e sợ bà chủ ưa động tay chân này, đặc biệt sau khi dì qua đời chị ta đã từng nếm trải một trận đòn do đích thân bà chủ ra tay, mặt chị ta đỏ bừng lên, bò trên mặt đất khóc tu tu: "...Phu nhân ăn nói... sao khó nghe thế! Tôi... Tôi không sống nổi nữa..."

Hạ phu nhân chả thèm thương hương tiếc ngọc, nhổ một ngụm nước bọt lên người chị ta, khinh thường: "Cô chết sớm càng tốt! Chỉ sợ chẳng chịu chết, đội lốt đầu trâu mặt ngựa tìm cớ hại người thì có! Mẹ chồng đối xử khoan dung với cô, thế mà cái loại không biết xấu hổ như cô thừa dịp mẹ chồng ốm nặng gây ra chuyện gì hả?! Cô còn dám khóc hả! Cô hạ dược cho tướng công, sai đứa hạ tiện bò lên giường, định lôi đứa ất ơ vào nhà gây hoạ! Mẹ chồng vốn còn sống được nửa năm nữa, bị cô tức chết luôn rồi!"

Dì Tào che mặt lệ tuôn như mưa: "Phu nhân chán ghét tôi, đánh tôi mắng tôi đều được, nhưng đừng có oan uổng tôi! Tôi cũng biết suy nghĩ cho nhà họ Hạ, anh họ đến giờ mới chỉ có một trai một gái, chi bằng lấy nhiều vợ lẽ, sinh con đẻ cái mới phải! Tôi không làm được, đành phải tìm đứa béo khoẻ đến, nào ngờ con bé đó lòng dạ khó lường, tôi đâu có biết..."

Hạ phu nhân giận dữ, đá mạnh vào người Tào thị, chửi: "Hừ, cô lừa ai hả! May mà bà nội đề phòng, chứ không cô mà thành công thì tôi giết chết cô cũng không có ai dám ra mặt! Đồ bẩn thỉu, giẫm lên đất của tôi tôi cũng thấy bẩn!"

Tào thị bị bà chủ cấu véo đau đớn, muốn lao đến chân người đàn ông, nhưng lại bị Hạ phu nhân đá thêm một cú, chị ta lăn ra đất gào khóc: "Anh họ, anh cứ giương mắt nhìn em bị đánh chửi thế sao?"

Người đàn ông đứng trước cửa, sắc mặt mờ mịt, dường như hai người phụ nữ đang đánh nhau ngay trước mắt hoàn toàn không liên quan đến hắn: "Nàng là bà chủ, cô là phận hầu, nàng muốn dạy bảo cô, cô phải chịu... Tôi mệt rồi, đi về trước."

Nói rồi liền xoay người ra khỏi phòng.

Hạ phu nhân đắc ý, cao giọng gọi đám đứa ở bà hầu vào, Tào thị thấy không ai giúp được mình liền hoảng hốt, quỳ xuống bên chân bà chủ định cầu xin đôi câu, chợt thấy hai bà hầu lôi một đứa hầu gái bị vả miệng tới nỗi hai má sưng tấy nhỏ máu tiến vào, chị ta liền thất thanh kêu lên: "Biên Tiên, tại sao em lại bị đánh đến nông nỗi này?!"

Đây là hầu gái tâm phúc còn sót lại duy nhất hiện giờ của Tào thị, đồng thời là kẻ vừa mới đến chặn đường người đàn ông.

Hạ phu nhân đá văng Tào thị ra, đi tới chỗ cửa sổ ngồi xuống, nhìn quanh bà hầu trong phòng, cất giọng chậm rãi: "Năm trước tôi đã nói rồi, trong mắt tôi không chứa nổi hạt cát, đừng tưởng chiếm hời..." Nàng chỉ Biên Tiên mềm nhũn dưới đất, lạnh giọng: "...Chỉ vì một ít bạc vụn mà dám đối chọi với ta hả! Người đâu, nếu con bé này tốt với dì Tào nến thế thì đưa giấy bán thân của nó sang nhà họ Tào đi!"

Biên Tiên tức khắc run rẩy, nó ở bên dì Tào khá lâu, làm sao không biết tình hình nhà họ Tào, nghèo túng đến nỗi ngay cả đốt củi nấu cơm con dâu họ Tào đều phải tự làm, ăn không đủ no mặc không đủ ấm, cha con nhà họ lại còn dâm đãng độc ác, bản thân là một cô gái trong sạch, sang đó chẳng phải dê vào miệng cọp?! Chỉ sợ bị bọn họ chơi chán liền bán cho kỹ viện!

Con bé cực kỳ hoảng sợ, dợm cầu xin, phát hiện quá run không nói thành lời, liền bị hai bà hầu kéo ra ngoài.

Bà hầu xung quanh yên lặng, không dám gây tiếng động.

"Xách lên cho tôi!" Hạ phu nhân hét lên, hai nàng hầu giữ chặt cánh tay Tào thị lôi lên phía trước.

Hạ phu nhân xắn tay áo, giương bàn tay dày dặn lên tát tới tấp, Tào thị ăn mười mấy cái tát, sứt môi rách mặt, liên tục xin tha.

"...Lúc trước tôi còn tưởng cô là người tốt, tiểu thư khuê các gặp khổ sở, chịu khổ ở thâm sơn cùng cốc, tôi còn định đối xử tử tế, cho cô ăn ngon mặc đẹp..." Hạ phu nhân ra tay sung sướng, từ tốn bỏ tay áo xuống, cất giọng châm chích như kim đâm: "Nào ngờ cô tham lam, không biết xấu hổ! Con bé hạ tiện đó bảy, tám ngày trước đó mới bò giường, tại sao lại chẩn ra có thai hai tháng?"

Hạ phu nhân cố tình làm nhục nhà họ Tào trước mặt mọi người, cất giọng thẳng thừng: "Hừ, cô đừng giả vờ ngớ ngẩn, tướng công với tôi đã điều tra ra, con bé đó ngày ngày đến nhà họ Tào đưa tin đưa đồ, câu kết làm bậy với anh em nhà cô từ lâu rồi, đứa bé trong bụng bất kể là ai thì đều là của họ Tào. Ha ha, nhà họ Tào của cô giỏi lắm, còn định vơ vét gia sản họ Hạ hả! Tôi nói cho cô, mơ nhé! Bà nội đã phát hiện ra rồi, chẳng qua đợi cô tự tìm đường chết mà thôi!"

Hạ lão phu nhân từ khi thấy con dâu chuẩn bị dầu cạn đèn tắt liền biết nhà họ Tào không chờ nổi, định gây rối, bèn bảo cháu dâu cứ chờ mà xem, người mất là hết, nhân tiện phòng bị con dâu trước khi lâm chung đề ra yêu cầu bất hợp lý.

Kết quả trước khi con dâu qua đời chỉ còn đủ sức cầu xin giúp đứa cháu ngoại, còn lại chẳng nói được gì, nhớ lại bà nội khôn khéo thông suốt, Hạ phu nhân vừa cảm kích vừa kính nể.

Kế sách bị vạch trần, Tào thị yên ổn được một thời gian, không dám thấy người, nào ngờ mới được vài tháng lại chứng nào tật nấy, Hạ phu nhân nghẹn đã lâu liền lấy cớ trừng trị chị ta!

"Cô ngoan ngoãn cho tôi, trước khi mất mẹ chồng từng dặn dò phải chăm sóc cô tử tế! Tôi và tướng công đều nhớ, sẽ không để cô đói khổ, nhưng nếu cô còn dám gây rối, ngoài thành nhiều am ni cô lợi lắm, trụ trì cũng lợi hại, tôi có rất nhiều cách chỉnh cô!"

Đe doạ mắng mỏ xong, Hạ phu nhân thoải mái hơn nhiều. Ném Tào thị khóc sướt mướt lên giường, một lần nữa cử thêm hai đứa hầu gái "đắc dụng", vài bà hầu "hiểu quy củ" cho chị ta.

Hả lòng hả dạ trở lại phòng mình liền thấy chồng đã tắm rửa xong, đang ngồi trên giường đùa giỡn với các con, con trai nghịch ngợm, giơ tờ giấy viết chữ đòi phụ thân khen ngợi, còn rúc rích bò lên vai cha cười đùa ầm ĩ, con gái dịu ngoan ngồi bên cạnh vừa hỏi vừa đáp sách thuốc "Hoàng đế nội kinh" với cha, người cha vừa ôm đứa con trai vặn vẹo trong lòng, vừa nhìn về con gái bằng ánh mắt tự hào.

Hạ phu nhân hân hoan vui sướng.

"Được rồi, hai con khỉ này còn không mau xuống!" Hạ phu nhân bật cười: "Cha các con còn chưa ăn cơm đâu!"

Nàng mới lại gần giường, con trai út đã tiện đà leo lên người, nũng nịu: "Mẹ, con với chị ăn cơm với cha nhé, con sẽ gắp thức ăn rót rượu cho cha."

"Hừ, có con ở đây, cha con mà yên ổn ăn cơm được?... Thôi nào, Thục nhi, dẫn con khỉ nhỏ về đi!"

Thục nhi xoay người che miệng cười khẽ, sau đó nắm tay em trai, nửa kéo nửa lôi ra ngoài.

Vợ chồng mỉm cười nhìn hai đứa con ra cửa, Hạ phu nhân vội gọi bà hầu dâng đồ ăn lên bàn trên giường, tự mình rót rượu vàng cho chồng.

"Lần này tướng công làm việc thuận lợi chứ?" Hạ phu nhân đã ăn lót dạ, không ăn nữa, chỉ ngồi đối diện cùng chồng: "Hoàng đại phu của cửa hàng Bảo An đã đến hai lần, bảo là có phương thuốc muốn thảo luận với chàng. Phủ Nghiêm quốc công đến nói lần trước ăn thuốc viên mà tướng công cho rất tốt, lão phu nhân và lão thái gia thích lắm, muốn xin thêm, nếu tướng công rảnh thì sau này mời tướng công thường qua phủ bắt mạch. À, còn cả Lâm thái y ở ngõ Song Hoa, ông ấy quyết tâm cáo lão, bảo tướng công suy nghĩ kỹ càng, thật sự không cần ông ấy tiến cử vào Thái y viện ư? Dù trong Thái y viện nhiều phiền phức nhưng lại có khá nhiều phương thuốc và sách thuốc cổ đã thất truyền, nếu tướng công không muốn vào thì cũng phải mở cửa hàng đi chứ..."

Hạ phu nhân quản gia rành mạch, bất luận là việc trong nhà hay xã giao đều giỏi giang.

Hạ đại phu nhấp nhẹ chén rượu, cất giọng cảm tạ tự đáy lòng: "Dạo này vất vả cho nàng, trong ngoài đều phải lo liệu, nàng cũng phải bảo trọng thân thể, lần này tôi mang về nhà ít táo đỏ và tổ yến, nàng giữ lại mà ăn, đừng đưa người khác."

Hạ phu nhân bật cười: "Vợ chồng với nhau cần gì phải cảm ơn, tôi khoẻ lắm."

Hạ đại phu mỉm cười, không nói thêm, cúi đầu ăn cơm.

Hạ đại phu hiện giờ mới hơn ba mươi, mặt mày tuấn tú, thường ngày sống đạm bạc, năm tháng ít để lại dấu vết trên mặt hắn, chỉ có đôi mắt thì lại già nua, luôn toát vẻ uể oải thẫn thờ.

Hạ phu nhân nhìn chồng một lát, chợt nhớ tới nhiều năm về trước. Nàng và chồng thành hôn đều ở độ tuổi không nhỏ.

Cha của Hạ phu nhân vốn là võ quan đóng tại kinh thành cấp bậc thấp, đến tuổi cập kê chọn cho nàng một hôn sự phù hợp, đối phương vừa là hàng xóm lâu năm vừa là đồng liêu, quả thực thích hợp làm thông gia.

Chuyện kế tiếp xảy ra, chẳng biết nên nhận định là tốt hay xấu.

Từ khi Nhân Tông hoàng đế về già, các vương gia phiên vương liên tục mưu nghịch, đương kim thiên tử lên ngôi, sau đó là bình loạn, vài năm sau lại có phản nghịch, sau đó lại bình loạn, trong ngoài kinh thành trở nên hỗn loạn.

Cha anh Hạ phu nhân liên tiếp đạt được công huân ở những lần biến loạn này, làm việc đúng đắn, cũng đứng đúng hàng, trong vòng mấy năm nhanh chóng thăng chức, nàng từ một cô con gái võ quan nho nhỏ không mấy nổi bật trở thành thiên kim tiểu thư của Phó Chỉ huy sứ cửa Nam có máu mặt trực thuộc Ngũ thành binh mã, các anh trai cũng có tiến đồ hứa hẹn, nhưng mà, vị hôn phu của nàng lại bỏ mạng trong chiến loạn.

Cứ thế kéo dài, nàng liền kéo đến hơn hai mươi tuổi, đến tận khi họ Hạ tới cầu hôn.

Nhân phẩm của chồng khá tốt, còn trẻ tuổi đã sở hữu y thuật giỏi, họ Hạ cũng được coi là danh môn. Dù sớm nghe phong thanh bên cạnh Hạ đại phu có cô em họ làm quý thiếp (nhà họ Tào làm ầm vài lần), nhưng Hạ phu nhân đã qua cái tuổi kén cá chọn canh, thế là cha mẹ nàng bèn đồng ý.

Sau khi lấy chồng cuộc sống cũng dễ chịu, dì Tào không khó ứng phó, đặc biệt quan trọng là, Hạ lão phu nhân đứng đầu gia đình vẫn còn quắc thước, nói năng to rõ, định ra một quy củ bằng sắt, hoặc con dâu Hạ Tam phu nhân hoặc Tào thị, phải có một người đi cùng bà ấy về quê Bạch Thạch Đàm.

Không có mẹ chồng làm chỗ dựa, Hạ phu nhân dũng mãnh thừa sức chỉnh đốn Tào thị, mà không có Tào thị ở bên, mẹ chồng Hạ Tam phu nhân có thở ngắn than dài cũng vô dụng. Chỉ có điều hàng năm về Bạch Thạch Đàm ăn tết, Tào thị và mẹ chồng đều ở cùng một chỗ thì hơi đáng ghét, may mà chồng cũng sáng suốt, thường đối xử có lệ với mẹ ruột, cũng chẳng thương hại cô em họ Tào thị là mấy so với nghe đồn, chẳng qua nể mặt mẹ mà thường đến phòng Tào thị ngồi một lát.

Lâu ngày, Hạ phu nhân còn cảm thấy sâu trong lòng chồng có vẻ chán ghét nhà họ Tào, để chia rẽ vợ chồng họ, Tào thị còn tiết lộ, ban đầu chồng từng có một hôn sự cực kỳ tốt, v.v...

Tào thị sai rồi, Hạ phu nhân hoàn toàn chẳng bận tâm, bản thân nàng đã từng có hôn phu, hơn nữa biết việc này càng có lợi, nàng càng xác định trong lòng chồng quả thực cực kỳ chán chường Tào thị, thế là ra tay trừng trị Tào thị càng ngày càng không nể nang gì.

Nên mắng thì mắng nên đánh thì đánh, nàng lớn lên nơi phố phường từ nhỏ, trong nhà chỉ có hai bà hầu chuyên làm việc nặng thô lỗ, có lúc còn phải theo mẹ ra phố mua đồ, nàng há mồm có thể thốt trơn tru những lời khó nghe, Tào thị không phải đối thủ.

Huống hồ chỉ cần nàng chiếm lý lẽ, dù trừng trị phận hầu thế nào, Hạ lão phu nhân hoàn toàn tán thành, mẹ chồng cũng chỉ có thể lau nước mắt, chẳng dám nói gì.

Hạ phu nhân bấy giờ mới hiểu tại sao Hạ lão phu nhân lại chọn mình làm cháu dâu, đối mặt với em họ kiêm quý thiếp mặt dày, với nhà họ Tào dai như kẹo kéo hàng ngày tới kiếm chác, với bà mẹ chồng không được việc không đáng tin, nếu lấy tiểu thư hoặc nết na hoặc hiền dịu hoặc nhát gan vào nhà, chỉ e trong nhà chẳng những càng ầm ĩ, vợ chồng cũng bị chia rẽ.

Cũng chỉ có nhà mình, dòng dõi tàm tạm, nhà vợ có thể làm chỗ dựa cho con rể, bản thân mình tính cách lại mạnh mẽ, chỉnh đốn phận hầu, tảng lờ mẹ chồng, xoay người còn có thể tỏ ra ân ái hoà hợp với chồng.

Đến năm trước, bà mẹ chồng luôn được coi là sắp chết lại mãi không chết cuối cùng cũng qua đời.

Nhờ có hành tây, nàng khóc lóc sướt mướt ra vẻ dâu thảo, khóc đến nỗi ai cũng chạnh lòng, kỳ thực, quỷ mới đau lòng, nếu không vì người mẹ hồ đồ, với nhân phẩm và tài cán của Hạ đại phu thì đã lấy được danh môn quý nữ, chấn hưng gia đình nhỏ từ lâu rồi, làm gì đến lượt bản thân mình?

Còn chồng đối với quả phụ qua đời dường như cũng chẳng đau lòng mấy.

Hạ phu nhân thấu hiểu, bao năm hao mòn, tình thương đã cạn kiệt. Còn Tào thị... sau này nằm trong lòng bàn tay nàng, nếu ngoan ngoãn thì nàng còn để yên, nếu dám ồn ào, ha ha...

Nghĩ tới đây, tâm tình Hạ phu nhân rất tốt, vừa giúp chồng gắp thức ăn, vừa thi thoảng kể lại những việc dạo này nghe thấy ở kinh thành.

"...Tháng sau vào xuân, kinh thành lại có vài việc vui đấy. Trong đó quan trọng nhất tất nhiên là cô Cả phủ Ninh Viễn hầu lấy chồng..." Nàng còn chưa dứt lời, Hạ đại phu chợt xen ngang: "Cô Cả họ Cố hai năm trước mới xuất giá mà, làm sao lại có một cô Cả nữa?"

Hạ phu nhân thầm kinh ngạc, chồng vốn từ tốn, nói hơi khó nghe thì chính là chậm chạp, thế mà cũng biết xen ngang cơ đấy.

Nàng cười bảo: "Chàng không biết đấy thôi, hai năm trước lấy chồng là con gái ruột của Cố hầu, còn người hiện nay lấy chồng là con gái của anh trai đã qua đời của Cố hầu, kể ra thì cũng là cô Cả phủ Hầu mà. Vị Cố Đại tiểu thư này được hứa hôn cho thế tử phủ Vĩnh Xương hầu, đúng là môn đăng hộ đối, phú quý song toàn!"

Hạ đại phu khựng lại, gật đầu.

Hạ phu nhân tiếp tục cười kể lể: "Chúng ta vẫn đang cung cấp y dược cho nhà họ Lương đúng không, lần này phải biếu xén thật nhiều mới được. Ôi chao, Lương lão phu nhân thật giỏi, đích thân đến cầu được hôn sự này với vị Đại phu nhân ở goá đấy. Lương hầu gia là người thành thực, kém xã giao, phòng thứ nhất họ Lương mấy năm nay càng ngày càng náo nhiệt. Lương hầu phu nhân nhã nhặn lắm, mấy lần còn kể với tôi khổ sở phát khóc, ha ha, như thế rất tốt, bám víu được nhà họ Cố..."

Nàng vui vẻ kể lể, chưa từng phát hiện Hạ đại phu ngồi đối diện hơi buồn bực, chỉ nghe hắn bảo: "Nếu họ Lương có mưu đồ đó, chẳng lẽ họ Cố cũng bị lôi xuống nước?"

Hạ phu nhân sửng sốt, đoạn tươi tắn bảo: "Tướng công nói gì thế? Nếu không phải là hôn sự tốt, Cố hầu còn lâu mới chịu. Lương thế tử tốt lắm, không thành thực như cha mẹ đâu, thật sự rất triển vọng. Có điều..."

Nàng dừng lại giây lát, nhỏ giọng: "Theo tôi thấy, hôn sự của Cố Đại tiểu thư hai năm trước mới gọi là tốt."

Hạ đại phu ngẩng đầu lên, chần chừ: "Một là thế tử phủ Hầu có tước vị cha truyền con nối, một là tân khoa tiến sĩ, tuy nói cũng phú quý, nhưng dù sao vẫn mém hơn." Nói rồi lại ngập ngừng: "Có điều Cố Đại tiểu thư không phải con dòng chính, cũng không chịu thiệt."

Hạ phu nhân cười bảo: "Tướng công không hiểu rồi. Họ Lương dù có tước vị, nhưng vài năm nay trong nhà trống rỗng, lại đông dân cư, năm, sáu phòng chị em dâu ở với nhau, anh em lại bất hoà, đích thứ tranh đấu, ngày ngày bất ổn, Lương hầu phu nhân chống chọi sắp bạc hết cả đầu. Nhìn xem, con gái họ Cố vào cửa liền bận bịu. Nhà họ Thường lại bất đồng, Thường phu nhân mất sớm, trong nhà chỉ có bà nội và chị gái đã lấy chồng, Cố Đại tiểu thư vừa gả đến liền là bà chủ gia đình. Mấy năm nay Thường đại nhân lại quan vận hanh thông, nữ quyến xã giao, nào ai dám coi thường cô Cả phủ Hầu?!... Chậc chậc, nghe bảo Cố hầu phu nhân rất thương đứa con gái này, thoạt đầu tôi còn không tin, bây giờ quả nhiên thấy đúng, hiếm có, thật hiếm có."

Hạ đại phu yên lặng chốc lát, cầm đũa lên, chậm rãi gảy đồ ăn.

"Cố hầu canh giữ biên cương, Cố Đại phu nhân là quả phụ, hôn sự này phải làm thế nào?... Hai năm trước, Cố hầu phu nhân vội vàng trở về từ phía Nam, đích thân xử lý hôn sự mà."

Thấy ông chồng xưa nay kiệm lời có hứng thú với việc này, Hạ phu nhân cũng hào hứng kể ra bằng sạch.

"Lần này Cố hầu phu nhân không đến, anh em Cố thế tử thay cha đưa gả chị họ. Chậc chậc, chàng không thấy chứ, Cố thế tử còn thôi, tuổi nhỏ nhưng đầy vẻ khí khái, còn cậu Hai Cố, đúng là đẹp như Phan An, giống hệt tranh vẽ. Hôm đó cậu ấy không ngồi xe, ruổi ngựa qua cửa Đắc Thắng, các chị các cô điên cuồng vứt túi thơm khăn tay và đồ bên người lên cậu ấy! Nghe bảo Cố hầu phu nhân năm đó là mỹ nhân hạng nhất, cậu Hai giống mẹ mới tuấn tú như thế. Chẳng biết cô gái nhà nào may mắn được xứng đôi với cậu ấy nhỉ, có khi nằm bên gối nửa đêm lại tỉnh giấc bật cười ấy chứ. Nghe nói Thẩm quốc cữu và cha vợ Anh quốc công rất ưng hai anh em họ Cố, còn định chọn mỗi cậu một bên làm con rể..."

...

Dùng xong cơm tối, uống xong trà, Hạ phu nhân ngồi trên giường thuê thùa, Hạ đại phu đứng yên dưới cửa sổ, hồi lâu, hắn đột nhiên nói: "Tuyết rơi." Sau đó mở cửa ra ngoài.

Trong đình viện có cây mai già, đoá hoa đầu cành run lẩy bẩy, bông tuyết bay lả tả giữa không trung, Hạ đại phụ đứng dưới bóng cây đưa lưng về phía cửa, ngước nhìn cánh hoa mai đọng tuyết.

Hạ phu nhân đẩy khung thêu sang một bên, chậm rãi đến bên cửa thưởng tuyết, ánh trăng bàng bạc, cánh hoa nhỏ bé ánh xạ màu bạc giữa trời tuyết, mông lung như tấm voan mỏng.

Nàng ngơ ngác đứng một lát, hoảng hốt nhớ lại năm ấy, cũng là đêm trăng sáng tỏ tuyết bay khắp trời, người thiếu niên tuấn tú hoạt bát nằm sấp trên tường, si mê ngắm mình, nàng cũng đứng dưới gốc cây mai già trong nhà, ngẩng đầu nhìn hắn.

Lông mày chàng thiếu niên đậm màu chếch cao, ánh mắt rừng rực, đôi mắt đen lay láy chỉ có bóng hình của mình, bông tuyết lạnh băng rơi lên mặt nàng, nàng cũng chẳng hay, lòng nàng đã bị ánh mắt nóng cháy của hắn làm tan chảy, cảm thấy tan thành nước.

Hai trẻ vô tư, thanh mai trúc mã, kết thúc được cha mẹ hai nhà hứa hẹn cho nhau, cuộc sống thật hạnh phúc...

"...Sáng sớm tôi sẽ xuất phát với cha và các anh, đợi tôi về, chúng ta thành hôn nhé, mai này, chúng ta... chúng ta... vĩnh viễn ở bên nhau, cho dù rụng hết răng, bạc hết tóc cũng ở bên nhau!"

"Em gái, tôi, tôi... trong lòng tôi chỉ có em... Xưa giờ đều chỉ có em."

"Em yên tâm, tôi nhất định bình an trở về, vì em tôi cũng phải bình an trở về."

Lời nói hãy còn văng vẳng bên tai, người thương trong mộng đã thành thi thể lạnh buốt, không còn ánh mắt nóng rực, không còn tiếng cười cởi mở, cánh tay nóng bỏng lực lưỡng...

Nước mắt tràn mi, Hạ phu nhan vội vã cúi đầu lau.

Nàng mất rất nhiều năm mới có thể thoát khỏi đau buồn, không biết đã từ chối bao nhiêu hôn sự mà cha mẹ tìm cho, bỏ lỡ tuổi xuân đẹp nhất, bỏ lỡ hôn sự tốt đẹp, nhưng nàng không bao giờ hối hận.

Chợt có một ngày, nàng nhìn các cháu chơi đùa trong viện, chợt phát hiện bản thân vẫn muốn có gia đình, vẫn muốn có hạnh phúc con cái sum vầy, cũng để cho cha mẹ và anh trai chị dâu khỏi phiền phức, thế là nàng đồng ý lấy chồng.

Chồng là người tốt, dù không hề yêu nàng, nàng biết rõ, nhưng chàng đối xử với mình và con cái đều dịu dàng săn sóc, vợ chồng quý nhau như khách, kính trọng lẫn nhau, cuộc sống giàu có bình thản bận bịu, nàng đã rất thoả mãn.

Một người phụ nữ, đời này từng được hưởng mối tình chân thành như thế, nàng đã mãn nguyện, đã cảm thấy không uổng sống trên đời này.

Hạ phu nhân định thần lại, nhìn người chồng đứng dưới gốc cây, trong lòng chợt dâng nỗi áy náy và tò mò.

Người đàn ông bình thản đạm bạc này, có phải trong lòng cũng từng có một người, một bóng hình làm hắn ghi khắc cả đời hay chăng.

Ngoại truyện 6: 


Nhà ta là họ Thịnh vùng Hựu Dương Kim Lăng nức tiếng, kỵ nội trúng Thám hoa nhưng đáng tiếc mất sớm, cụ nội Thịnh Hoành đến lúc cáo lão đã là quan viên nhị phẩm, ba người con trai đều là tiến sĩ hai bảng, vào triều làm quan, trong số đó có ông nội ta Thịnh Trường Bách, càng là nguyên lão hai triều được ghi tên vào Danh Thần các, bốn lần nhập các, ba lần bái tướng, để lại dấu chân trong sáu Bộ và mười ba tỉnh, môn sinh trải lần thiên hạ.

Mà ta, chỉ là một cô con gái vợ bé nho nhỏ trong gia đình thanh quý này, lại còn do một người con trai không được coi trọng sinh ra.

Ông nội trị gia cực nghiêm, bốn người con trai đều yêu cầu phải tu thân, tề gia rồi mới tới trị quốc bình thiên hạ, nếu có ai hành xử lông bông liền xử trí bằng gia pháp, ba người con trai đầu đều như ý, độc cha ta là ngoại lệ.

Hồi cha ta còn bé, ông nội tới biên thùy làm đại quan Tây Bắc, bà nội theo thường lệ đi theo, đành phải để lại con trai út sức khoẻ kém cho cụ nội là phu nhân Vương thị nuôi nấng, người già thường chiều cháu, đến khi ông bà nội về kinh, cha ta liền biến thành kiêu căng lười nhác.

Ông nội mấy bận định quản giáo, cụ nội lần nào cũng khóc đòi sống đòi chết, ông nội bận rộn việc triều chính, không thể ngày ngày đối phó với mẹ già và con thơ, thành ra cha ta cứ sống nửa vời như vậy đến khi lấy vợ sinh con.

Cái gì gọi là nửa vời? Nói cha ta giỏi giang đi, trong nhà họ Thịnh ai cũng có công danh lại chỉ thi đỗ Lẫm sinh, nói cha ta hư hỏng đi, lại cũng không dám thật sự giao du với những kẻ ăn chơi trác táng, gây ra những việc như kỹ nữ, ngoại thất như trong kịch.

Đến khi ta biết đi, biết nhảy còn thường xuyên nhìn thấy cụ nội ôm siết người cha đã trưởng thành của ta vào lòng, gào khóc với ông nội đang cầm gậy: "...Ai bảo A Hoan nhà ta không tốt hả, nhà bình thường có một vị tiến sỹ đã là khó, tổ tông nhà họ Thịnh lại rủ lòng thương, đứa nào cũng giỏi đọc sách, khiến A Hoan tự dưng lại thua kém, yêu chiều nhiều đứa hầu thì đã làm sao! Ta biết con ngứa mắt ta, thấy ta thương A Hoan nhiều hơn chút bèn muốn giày vò nó, chao ôi, chi bằng ta đâm đầu chết cho xong..."

Đối với hai bà cháu ôm nhau khóc lóc, ông nội toàn năng của ta đành từ bỏ, bà nội khó xử quay sang an ủi con dâu vài câu, thế là xong chuyện.

Mẹ cả và cha không có tình cảm với nhau, sinh được một trai một gái xong, hai vợ chồng cơ bản nước giếng không phạm nước sông, thú tiêu khiển lớn nhất của mẹ cả chính là châm chọc cha ta, lúc thì làm thơ, lúc thì vẽ tranh, thường xuyên lôi cha ta ra làm ví dụ phản diện để răn đe anh trai phải đọc sách tử tế, tu thân dưỡng tính.

Cha không dám chọc vào mẹ cả, đành phải kính nhi viễn chi, trừ vài ngày làm theo gia quy, còn đâu bình thường toàn chui rúc ở chỗ các bà vợ bé, dì ta mỗi tháng được hưởng sái ba, bốn ngày.

Với can đảm và trí tuệ của cha ta, đương nhiên không dám làm quen với kỳ nữ "thân là hạ tiện mà lòng cao ngút trời", lại không ai chọn con gái nhà lành cho ông ấy, vậy nên vợ bé của ông ấy toàn bộ là hầu gái trong phủ.

Trong số đội quân của cha ta, dì ta cũng thuộc dạng nửa vời, vừa không được yêu chiều như dì Lý, vừa không đến mức bị lạnh nhạt như dì Triệu chưa già sắc đã suy. Đối thủ cạnh tranh lớn nhất của bà là dì Khâu ở đối diện.

Hai bà lần lượt bị bán vào phủ Thịnh, lần lượt được cử đến hầu hạ thiếu gia, dì Khâu được "lâm hạnh" trước hai tuần, dì của ta lại được chính thức nâng lên làm "dì" sớm hơn ba ngày, ngay cả sinh con gái cũng cách nhau độ nửa tháng, thật có thể coi là không chết không dừng, kỳ phùng địch thủ.

Đứa ở hầu gái hai bên thậm chí nuôi mèo cũng không cho qua lại với nhau, khiến cho em Bảy mà dì Khâu sinh ra cũng thường nhìn ta bằng ánh mắt coi thường. Hiện giờ mục tiêu cạnh tranh lớn nhất của họ chính là xem ai sinh ra con trai trước.

Tội gì phải thế.

Ta không phải nói hai bà tội gì phải thế, sinh con trai là nguyện vọng theo đuổi lớn nhất trong đời người phụ nữ, đương nhiên cần cố gắng, ta muốn nói tới em Bảy tội gì phải thế.

Chị Cả kiêm chị họ đã lấy chồng, lúc đó bác Cả là quan lục phẩm, cộng thêm ông nội uy nghiêm, chị ấy được gả cho một vị Cử tử nhà giàu. Cứ thế mà tính, cha ta chỉ là một Lẫm sinh, không được ông nội coi trọng, tương lai của ta và em Bảy chắc không phải làm vợ Tú tài thì cũng là làm vợ kế nhà quan, không khéo còn có thể là bà chủ nhà thương nhân cũng nên.

Nửa cân tám lạng, để xem em Bảy thích học vấn địa vị hay là thích tiền bạc hơn thôi, dù sao ta chẳng xét nét. Với dòng dõi và nếp nhà như chúng ta, không đến mức phải lấy con gái ra để bám vào quyền quý, cũng sẽ không có việc mẹ cả giày vò con thứ mà cố ý gả cho kẻ tệ hại, nhưng điều kiện hữu hạn, cha ta cơ bản là chẳng có công danh, hôn nhân không kém quá là được, có gì mà phải tranh.

Nhưng em Bảy lại suy nghĩ vớ vẩn, từ dung mạo trang điểm tới học vấn giáo dục cứ phải so kè với ta, giành được thắng lợi mới chịu.

Dì thất vọng, suốt ngày đuổi theo nhắc nhở ta, ta bị lải nhải thấy phiền bèn dạy dỗ ngược lại bà: làm con thứ thích nổi bật làm gì, so bì tị nạnh với con gái dòng chính để chuốc lấy phiền toái à, cũng giống như các dì ấy, nếu tỏ ra còn hiền lành, còn tài giỏi, còn đa tài thanh danh lan xa hơn phu nhân chính thất, lại còn tình thâm ý trọng chết đi sống lại với lão gia thì phỏng chừng cách cái chết cũng chẳng xa.

Dì không nói lại được ta, đành đấm ngực giậm châm mắng ta không có chí tiến thủ. "Tóm lại con bị làm sao, cứ một mực cố chấp thế hả."

Ta tỏ ra quá khen quá khen, chẳng qua ta giỏi quan sát đấy thôi.

Lứa ông nội từng xuất hiện hai vị bà cô xuất thân con thứ vô cùng nổi tiếng, một vị trong đó chẳng những gả cho nhà hiển hách vẻ vang, còn giữ được lòng chồng, lão Cố hầu giậm chân một cái là triều đình rung chuyển một lòng một dạ với bà cả đời, nghe nói từ hôm bà cô vào cửa, ông ấy còn không chịu cưỡi ngựa là ngựa cái. Năm đó bà cô ốm bệnh liệt giường, chừng như không qua khỏi, nghe nói lão Cố hầu dày dạn sa trường vài chục năm khóc lóc thảm thiết như cha chết, đương nhiên, cha ông ấy đã chết từ lâu.

Đều là người sáu, bảy mươi tuổi mà còn thế.

Chuyên sủng như thế vốn không khỏi làm cho quyền quý kinh thành chê trách, nhưng bà cô làm người rất tốt, nội quyến từ phủ Anh quốc công, phủ Uy Bắc hầu đến nhà họ Bạc, họ Phục, họ Đoàn... Rất nhiều gia tộc nhà cao cửa rộng đều qua lại thân thiết với bà, người sống theo nhóm, có chị có cô nào ngứa mồm dám lắm miệng chứ, huống hồ sự thật chứng minh, bà cô của ta vừa vượng phu vừa vượng tử, bốn người con trai đều giỏi giang bản lĩnh, tỷ lệ thành tài còn cao hơn cả ông nội ta.

Chú Tư nhỏ nhất phủ Cố vừa không theo văn cũng không theo võ, còn không chịu thành hôn, dạo khắp núi sông nam bắc, năm ba mươi sáu tuổi hoàn thành "Giang Sơn Toàn Dư Chí", hiến tặng thánh thượng, chấn động thiên hạ. Đưa phong thổ tình đời của hai kinh mười ba tỉnh, đưa non sông tươi đẹp vào sách, nét chữ thanh nhã sinh động, cảnh tượng hiện lên trước mắt đầy sống động, nhất thời văn chương cao quý khó ai bì kịp. Tranh vẽ bản đồ gập ghềnh như mộng ảo, chừng mực chính xác, đứng trước bức vẽ cao bốn, năm người, non sông gấm vóc dường như tạt vào mặt, người ngắm tranh dường như quên cả thở. Bức tranh phong thổ được treo trên vách trong nội đường cung Càn Thanh, bức tranh quân sự thì được cất kỹ trong kho bộ Binh.

Do bị chú Ba yêu thích lái thuyền ra biển Đông giành trước, chú Tư đành phải hành tẩu về phía Tây, dọc theo con đường cổ mà Hán sử Trương Khiên từng đặt chân, cát vàng quan ải, hoàng hôn hoang mạc bao la bát ngát, xương cốt chôn vùi trên nền cát cằn cỗi, lại có thể mọc lên những đoá hoa rung động lòng người, kiêu hãnh quật cường ngẩng cao, ngàn năm không thay đổi. Xưa nay ta vốn vô tâm mà đọc tới đoạn này cũng không kìm nén nổi tuôn lệ như mưa.

Tin tức gần đây của chú Tư là, có vẻ chú ấy lấy tuổi tứ tuần mê hoặc cô con gái duy nhất của vị quốc vương nào đó ở Tây Vực, dự định ở lại bản địa làm trâu già gặm cỏ non, làm phò mã nhân tiện kế thừa vương vị.

Được chú Ba, chú Tư truyền cảm hứng, thiếu niên chí lớn trong thiên hạ noi gương, tới tấp vượt biển Đông, du hành về phía Tây, hăng hái lang bạt.

Đối với các cô bé nhà họ Thịnh, vị bà cô này là thần tượng, là tấm gương, là mục tiêu hướng tới, bất kể con thứ hay con dòng chính đều chỉ hận không tiếp bước truyền thuyết của bà. Đáng tiếc, đến giờ vẫn không có.

Cái gọi là người thiện chiến thì không có chiến công huy hoàng, bà cô của ta có kiếp sống khuê các vừa tầm thường vừa khiêm tốn, không có tài danh, hiền danh, nhân anh... không hề đặc biệt xuất sắc ở mặt nào, chỉ nghe nói cực kỳ hiếu thảo, tình sâu nghĩa nặng với bà nội, mấy lần tranh cướp phụng dưỡng với ông của ta, nhưng toàn bị ông nội đẩy lùi, tiếc nuối giận dữ. Đến khi chính bà lên làm bà nội hãy còn ấp ủ tà tâm, may mà ông nội gừng càng già càng cay, trái cản phải đỡ, thành công giữ lại kỵ nội sống quãng đời còn lại trong nhà.

Theo như nghe đồn, bà cô của ta thuở thiếu thời dường như chẳng ai biết đến, thế này biết học hỏi thế nào đây.

Thiếu nữ làm gì có cơ hội lộ diện, chỉ có thể gắng sức trên mặt học vấn, chị họ Năm được yêu chiều nhất nhà mất cả năm làm bài thơ "vịnh mai" sáu mươi câu để chúc thọ ông nội, nào ngờ bị nửa câu ngắn gọn "con gái khuê các chỉ nên học tập để tu thân dưỡng tính" của ông nội làm rơm rớm nước mắt.

Kỳ thực thơ văn giỏi nhất phải kể đến chị họ Tư, năm đó ở buổi tiệc thưởng cúc của Phúc Dương trưởng công chúa làm bài thơ ngũ ngôn hay tuyệt, bao người khen ngợi, nhưng sau khi trở về bị bà nội mắng cho một trận, bị phạt chép ba tháng kinh Phật và nữ giới.

"Công chúa rõ ràng muốn con gái mình nổi bật, cố ý mời Tam hoàng tử mọt sách đến nghe, để anh họ em họ nảy sinh tình ý với nhau, ai bảo nó xen vào chứ." Chị họ Ba vốn bất hoà với chị họ Tư đắc ý nói.

Ông nội ghét nhất cháu gái ngâm thơ vẽ tranh, bà nội không thích nhất cháu gái ra ngoài rêu rao ầm ĩ, nguyên nhân là bởi một vị bà cô khác cũng nổi tiếng của nhà ta. Năm đó do bà cô bất mãn với hôn sự mà cụ nội chọn lựa bèn ra cửa tự tìm lang quân, giữa ban ngày ban mặt hành xử thiếu ý tứ, cuối cùng tuy giành được hôn sự nhưng hiện giờ vẫn bị người ta lôi ra bàn tán.

Sau cùng bà ấy cũng suy tàn, sinh một hơi năm đoá kim hoa, từng đoá đều gả thấp. Sở dĩ ta biết rõ như thế là bởi năm đó bà cô lấy chồng họ Lương tìm con rể khắp thiên hạ không được, liền muốn đưa con gái gả về nhà mẹ đẻ, ồn ào ảnh hưởng tới cha ta và bác Ba, ba bác nhà ông cậu Tư, tóm lại cả nhà đều biết, song vẫn bị từ chối khéo.

May mà anh trai chị dâu ruột thịt của bà cô gắng gượng chấp nhận một cô, còn là con thứ, có điều nghe nói vợ chồng tình cảm lắm, hiện giờ đi theo bác ở quê học làm ăn.

Con gái họ Thịnh muôn màu muôn vẻ, náo nhiệt phi phàm, chẳng cần ta thêm phần. Ta ăn rồi lại ngủ, ít học nữ công, ít khi đọc sách, biết Lý Thạch và Lý Thái Bạch là cùng một người, Lý Quảng và Lý Quảng Lợi là hai người khác khác nhau là được.

Đến năm chín tuổi, em Bảy đối diện càng ngày càng mảnh dẻ cao ráo, còn bé đã hết sức xinh xắn, eo ra eo chân ra chân, còn ta càng lớn càng tròn, xương nhỏ, cả người nung núc thịt, béo trùng trục như chú lợn con.

Dì khóc không ra nước mắt, cho rằng ta phụ lòng vẻ xinh đẹp của bà, cam chịu đắm mình trong trụy lạc, dì chỉ biết được mấy thành ngữ, vốn là học lỏm được khi tán tỉnh hầu hạ cha ta, toàn dùng lên người ta cả.

Ta kiên nhẫn tiếp tục phản bác: làm con gái mười mấy tuổi đã lấy chồng, rồi hầu hạ bố mẹ chồng, lấy lòng cô em, cậu em chồng, giúp chồng dạy con, xử lý vợ bé, người khác ăn cơm cô nhìn, người khác ngồi cô đứng, trong lòng dù mệt ngoài mặt vẫn phải cười... Cứ thế chịu đựng vài chục năm, đến khi lên làm mẹ chồng, cuối cùng có thể bắt nạt con gái nhà người khác, trút giận, cơ mà nếu mẹ chồng trên đầu vẫn còn sống thì chưa xong hẳn, vẫn phải chịu đựng tiếp.

Làm con gái cả đời này thoải mái nhất chính là quãng thời gian ở khuê phòng, ta tuy là con thứ, nhưng may có bà nội nghiêm khắc, bác Cả quản gia nghiêm túc, kẻ hầu không dám nhìn người đưa thức ăn, dù là con vợ bé cũng không phải tranh chấp vì đồ ăn cái mặc, nếu đã thế, vì sao ta không thể sung sướng hưởng thụ những ngày hiếm có thế này.

Như em Bảy, rõ ràng thích ăn bánh bơ muốn chết, lại cắn răng chịu đựng không dám ăn, mặc cho nước miếng đau lòng chảy ngược về bụng, trơ mắt nhìn ta nhâm nhi từng miếng, đôi mắt toé lửa, mặt xanh lè, lỗ mũi phập phồng giống con ếch đói khát.

Vẫn là câu nói đó, tội gì phải thế, sau này lấy chồng, không khéo muốn ăn cũng chẳng được.

Dì hết cách với ta, mắng ta là ngụy biện, ta cứ chuyện ta ta làm. Dì thấy ta không nghe lời bèn trút hết nhiệt tình vào sự nghiệp nịnh nọt cha ta sinh con trai.

Năm ta mười tuổi, bạn tốt của ông nội là Tề quốc công cuối cùng kết thúc làm quan bên ngoài mười mấy năm, phụng chỉ về kinh vào lục Bộ, nhập các, ông ấy và ông nội là bạn từ thuở nhỏ, cùng trường, cùng năm, cộng thêm là đồng liêu, thân như anh em.

Rằm tháng Giêng năm ấy, vì con cháu họ Tề chưa trở về kịp, lão công gia liền đến nhà ta ăn tết, ông nội bèn kêu con cháu trong nhà đến dập đầu chào hỏi.

Ta theo lệ thường ăn vận chiếc áo đỏ thắm thể hiện vui mừng, cả người tròn như cái bánh chưng, ngực đeo khoá vàng mà chị em nào cũng có, trên đầu búi hai búi tóc tròn tròn mập mạp, quấn quanh bằng chuỗi ngọc san hô đỏ đơn giản. Dì vốn cũng định búi tóc đeo trâm cho ta, nhưng gương mặt tròn phúng phính nhìn kiểu gì cũng không hợp, đành phải từ bỏ.

Nhìn em Bảy mặc chiếc áo vàng chiết eo thêu cành hoa hồng xinh xắn, tóc mai buông chiếc trâm nho nhỏ, tươi đẹp như con chim sơn ca, dì lại nhìn sang ta, ảo não suýt bật khóc.

Chen chúc trong nhóm anh chị em thi lễ xong với Tề quốc công, ông nội và lão công gia đang hỏi han học vấn của các anh họ, ta bắt đầu mệt mỏi, chậm rãi, thong thả lui vào một góc.

"Nhóc con mập mạp mặc bộ đồ đỏ thắm đâu, lại đây cho ta nhìn một cái."

Giọng nói già nua trong trẻo, như cơn gió mát thổi tan oi bức trong nhà, ánh mắt mọi người đồng loạt đổ dồn lên ta. Ta rùng mình, tức khắc tỉnh táo, bị ai đó xô đẩy lên trên.

Ta sợ hãi ngẩng đầu, liếc ông nội trước, sắc mặt ông nội rất phức tạp, cau mày nhìn bạn tốt bên cạnh, lộ vẻ suy tư. Tề lão quốc công rất hiền từ, vỗ móng vuốt mập mạp của ta, từ tốn hỏi ta bao nhiêu tuổi, đọc sách gì, thích ăn gì, đến khi biết ta đứng hàng thứ sáu càng vô cùng vui vẻ, liên tục kêu: "Tốt tốt, lục lục đại thuận, tốt!"

Tốt cái gì mà tốt, trong nhà lắm cháu gái, làm gì được đặt tên chính thức, chẳng qua gọi theo thứ tự như "Ngũ Nương, Thất Nương" mà thôi, chị họ Hai ham chơi thấy ta hiền hoà, ít khi tức giận liền hay trêu ta là "Tiểu Lục Tử."

Ta là điển hình chỉ mạnh mẽ trong nhà, trừ lúc chỉ bảo dì ra, đối với người ngoài ta hầu như ít khi nói chuyện, lão quốc công hỏi một câu ta đáp một câu, vừa ngốc vừa ngơ, song lão quốc công rất kiên nhẫn với ta, cười tủm tỉm nghe ta lắp ba lắp bắp, chị họ Năm ở bên cạnh sắp trợn lòi cả tròng mắt, rõ ràng chị ta mới là cô gái lanh lợi nhất khéo miệng nhất khiến người khác thích nhất nhà cơ mà!

Trước khi lão quốc công ra về còn móc ra một miếng ngọc Dương chi to bằng lòng bàn tay cho ta, miếng ngọc sáng lấp lánh, bóng loáng trơn nhẵn, dù ta không biết xem hàng, nhưng nghe thấy tiếng bác gái Ba hít một hơi liền biết tương đối đáng giá.

Sau hôm đó, chị Ba chanh chua phàn nàn ta là "đứa ngốc quấy rối". "béo ngốc như thế, quả thật làm xấu hổ nhà họ Thịnh", ngay cả chị Tư tạm coi là ôn hoà cũng phớt lờ ta, còn chị Năm thì cố ý thân thiết với em Bảy, thường nói bóng nói gió. Ta rất khó chịu, ta rõ ràng không làm chuyện xấu, chính xác thì, ta có làm gì đâu mà bỗng dưng bị bắt nạt.

Dì rất vui vẻ, liên tục khen Tề lão quốc công tuệ nhãn thức châu, nửa hôm trước bà còn cảm thấy ta giống "heo", bây giờ lại thành "ngọc" rồi, quyền thế và của cải thật tốt nha, cái gì cũng thay đổi theo.

Dì hỏi ta lão quốc công trông thế nào, ta không trả lời được, khi đó ta chỉ biết lo sợ, sợ không tuân theo đúng lễ số bị trách mắng, sau này hồi tưởng lại, Tề lão quốc công xấp xỉ tuổi tác với ông nội, cũng mặt trắng râu dài, dưới vẻ gầy gò là phong thái uy nghiêm.

Nhưng cũng không phải hoàn toàn giống nhau, xưa nay ông nội luôn nói năng thận trọng, ánh mắt nghiêm nghị cương quyết, nhưng lão quốc công lại phóng khoáng hơn, luôn tươi cười, lúc cười đôi mắt hơi toả sáng, giống như gió mát lả lướt trên mặt sông, hây hây phả lên mặt vừa mát mẻ vừa thoải mái.

Ta chưa bao giờ biết, một ông lão cũng có thể đẹp đến thế.

Chú Hai họ Cố cũng rất điển trai, nhưng tính tình lại y hệt ông nội, hoặc không nói, hoặc hễ mở miệng không phải lời hay, thật phí của trời, tuổi càng lớn hành xử càng đanh thép, bao nhiêu đại quan tam, tứ phẩm nhìn thấy đều mềm nhũn đầu gối, càng chẳng ai dám chú ý tới tướng mạo của cậu ấy.

Sau này có lần ta ngẫu nhiên nghe thấy chị Hai về thăm nhà kể rằng, Tề lão quốc công là mỹ nam hạng nhất kinh thành năm ấy, đến nay vẫn chưa có ai sánh bằng, ngữ khí vô cùng thất vọng, tựa hồ tiếc nuối bản thân sinh sau đẻ muộn tận vài chục năm, không thể tận mắt chiêm ngưỡng phong độ của mỹ nam tuyệt thế.

Chị em trong phòng rúc rích cười khì, làm anh rể Hai rất không vui, nhanh chóng xuyên qua bình phong, xách bà xã về nhà.

Về sau đều ở kinh thành làm quan, Tề lão quốc công thường sẽ đến trong phủ tìm ông nội đánh cờ bình thơ, mỗi lần đều phải gặp ta, mỗi lần gặp lại phải tặng quà gặp mặt, nào là bút lông sừng tê giác Lĩnh Nam màu hồng, ngọc trai Hải Nam to như ngón tay cái, nghiên mực vân đá do Phạm Đại Thành chế tạo ra, châu ngọc vùng tuyết biên thuỳ... ngay cả cha ta cũng hiếm thấy có đồ tốt như vậy.

Dì cười híp mắt, mẹ con dì Khâu đối diện thì ghen tị xanh mắt, dì Lý được chiều chuộng nhất thì nheo mắt lại.

"Nghe bảo họ Tề trù phú khó tả, quả nhiên là thật." Cha nhận xét: "Lão quốc công không có con gái, cũng không có cháu gái, chắc là coi cái Sáu như cháu gái rồi."

Cây cao vượt rừng thì dễ đổ, người nổi bật thì bị bắt nạt.

Đang chơi nhảy dây, đột nhiên ta sảy chân ngã nhào, chị Ba đến đỡ ta còn tiện thể véo mạnh vào tay ta một cái, nếu ta kêu đau, chị ấy sẽ ra vẻ kinh ngạc "úi chà ngã đau thế à".

Đang yên lành đi trên đường, tự dưng "sơ ý" ngã vào trong ao, may mà ao không sâu, chẳng qua váy ướt một nửa, cộng thêm cảm lạnh ốm đau sáu, bảy ngày, em Bảy dựa vào cửa, cười hớn hở.

Đang ngồi trong đình hóng mát, chợt thấy một chiếc ná quen mắt lòi ra từ bụi cỏ, nửa hòn bi bằng đất đánh vào người đau nhói, em trai Chín và chị Năm vốn là chị em ruột, luôn luôn thân thiết.

Chị họ vốn ngồi cạnh ta trên lớp, có mấy lần ta nhìn thấy chị Năm nháy mắt với chị ấy, chị Tư cắn môi, nhìn chị Năm, lại nhìn ta, tay cầm nghiên mực giơ lên lại hạ xuống, thở dài khe khẽ, cúi đầu nghĩ vế thơ.

Bác Hai say mê học vấn, chức quan không cao được như bác Ba, ta rất cảm kích chị Tư.

Ta lén lút đưa nghiên mực vân đá đó đưa sang, nào ngờ ngày hôm sau bọc nhỏ nguyên vẹn bị trả về, kèm thêm một bình thuốc cao trị sưng tấy nhỏ.

Rất lâu về sau, chị Tư được gả cho Tam hoàng tử làm thứ phi, mấy năm sau nữa, chính phi của Tam hoàng tử ốm yếu qua đời, bèn đưa chị Tư vốn có nhiều con cái phù chính.

Tốt thật.

Xoa tan máu bầm, ta cất hết từng báu vật mà lão quốc công tặng cho vào rương, khoá kỹ, nghiêm túc bảo dì: "Tương lai nếu ta lấy chồng không tốt, không chăm sóc được cho dì, dì cầm mấy thứ này mà đổi bạc dưỡng lão."

Mắt dì đỏ hoe, ôm ta khóc hồi lâu.

Ai cũng đều không thích nén giận, nhưng nên nhẫn thì phải nhẫn, làm to chuyện lên thì sao chứ, chị Năm là con vợ cả, có rất nhiều anh em ruột thịt, bác Ba lại được ông nội coi trọng, chị em tranh chấp là chuyện nói nhỏ thì cũng nhỏ mà bảo to thì cũng to, thôi đừng tự làm mất mặt.

Chỉ có một lần, nước ao trong chứng giám người, ta nhìn thấy trên mặt mình bị ná đánh hằn vết xanh to, ta che mặt trống trong hòn giả sơn, ngồi khóc tu tu, từng giọt nước mắt to chìm xuống bùn đất, thấm ướt một mảng nhỏ, Tiểu Cửu cố tình mà, ná của nó vừa chuẩn vừa ác.

Làm thế nào, làm thế nào bây giờ, lần này không thể giấu được, không thể để dì nhìn thấy, dì sẽ tìm cha kể khổ, nhưng cha làm sao dám tranh cãi với bác Ba chứ, nửa năm nay cụ nội ốm bệnh mơ hồ, không có người làm chỗ dựa cho ta và dì, cho dù chị Năm và em Chín bị phạt thì ta và dì cũng chẳng tốt đẹp gì.

Ta chịu đựng đau đớn ra sức xoa mặt, những mong xoa cho tan máu bầm, đôi mắt chua xót lại không chịu nghe lời, trong lòng vô cùng tủi thân, cứ sướt mướt mãi... Cuối cùng ta nảy ra ý ngốc, cố ý ngã xuống núi đá, rách cả trán, thế mới lừa gạt dì được.

"Cái con bé nhiễu sự này, cọ rách mặt mai sau làm sao lấy chồng!" Dì hét lên đầy mạnh mẽ.

May mà ác có ác báo, chưa được mấy ngày, ông nội thấy Tiểu Cửu ngày ngày lêu lổng, quyết tâm đưa hắn đến thư viện Tùng Sơn nhờ bạn tốt dạy dỗ giùm, bác gái Ba nhìn con út yêu thương nhất đi xa liền khóc sưng mắt, lại chẳng dám nhiều lời một câu.

Chị Năm đại khái quá đau lòng, em trai vừa ra cửa liền ốm nặng, không thể lên lớp, bà nội thương chị ấy bèn đưa chị ấy đến trong phòng mình chăm sóc, hơn nửa năm sau chị Năm mới lành bệnh đi ra.

Sau đó chị Năm không còn bắt nạt ta nữa, dù em Bảy ra sức lấy lòng xúi giục thế nào đều lạnh lùng hờ hững.

Chẳng bao lâu sau, cụ bà qua đời, ông nội có đại tang, càng qua lại thân mật với Tề lão quốc công. Chín tháng sau ta tròn mười ba tuổi, cha ta làm cháu trai kết thúc hiếu kỳ, phủ Tề chợt tới cầu hôn, lão quốc công muốn cầu ta làm vợ cho cháu trai ông ấy.

Ông nội bình tĩnh đồng ý

Chẳng qua những người khác trong phủ lại không bình tĩnh được thế.

Chuyện này tựa như sấm sét nổ trên đất bằng, làm tất cả mọi người ngạc nhiên ngã ngửa ra, trừ ông bà nội, ai nấy đều nhìn ta bằng ánh mắt kinh dị.

So gia thế, dù lão quốc công không có thế mạnh trên triều đình như ông nội, nhưng cũng không kém là mấy, hơn nữa người ta dù sao có tước vị truyền đời, tổng hợp lại xem thì còn ưu tú hơn.

So gia tài, người mẹ Bình Ninh quận chúa của lão quốc công cơ hồ để lại một nửa tiền tài của Tương Dương hầu cho con trai, người cha của lão quốc công theo nghiệp buôn muối mười mấy năm, lão quốc công lại ra ngoài làm quan mười mấy năm, đấy là còn chưa kể tới của cải tích luỹ mấy đời của phủ quốc công.

Họ Thịnh dĩ nhiên cũng được coi là trù phú, nhưng đương nhiên thua kém. Con trai họ Thịnh tràn đầy, còn lão quốc công tổng cộng chỉ có hai con trai, ba cháu trai, dù phân chia thế nào thì đều giàu có.

So nhân phẩm, chú rể tròn mười sáu, là Tú tài, cha ruột là con trai thứ của lão quốc công, hiện giờ là quan to giữ chức tam phẩm, còn cha ta...

Khỏi cần so sánh nữa, công tử phủ quốc công cao quý như thế, chỉ có chị Năm, con gái dòng chính nhà bác Ba, hoặc chị Tư, con gái dòng chính của bác Hai mới miễn cưỡng xứng đôi, kể cả chị Ba là con thứ của bác Cả cũng còn xứng hơn ta.

Trong cơn hoảng hốt ngỡ ngàng của mọi người trong phủ, bà nội và bác gái Cả tiến hành chuẩn bị lễ đính hôn đâu vào đấy.

Tiếp đến, cuộc sống của ta trở nên hết sức kỳ lạ.

Các chị họ trong bụng nghĩ thế nào ta không biết, nhưng ngoài mặt vẫn phải khách khí nhã nhặn như cũ, các bác gái thì trước sau đều kinh ngạc, vô cùng khó hiểu, ông bà nội vẻ mặt bí hiểm, chẳng ai dám đi hỏi, mọi người vui sướng hân hoan, đồng loạt tới chúc mừng mẹ cả của ta (may mà em Tám đã đính hôn, không thì ta thật không dám nhìn sắc mặt mẹ cả).

Đây là cách làm của người thông minh, còn kẻ ngốc thì đặc sắc hơn nhiều. Em Bảy gườm ta bằng ánh mắt ăn sống nuốt tươi, nếu ánh mắt có thể biến thành kiếm sắc thì e rằng người ta đã bị thủng lỗ chỗ.

Trước lễ đính hôn chính thức của ta một tháng, cuộc chiến lâu năm giữa dì của ta và dì Khâu cuối cùng phân định thắng bại. Vì việc đính hôn của ta mà dì hoàn toàn ngớ ngẩn, xao nhãng việc tận tâm tận sức nịnh nọt cha ta, thế là dì Khâu dẫn đầu sinh ra con trai trước.

Cha ta được cây già nở hoa, ôm em trai thích thú vô ngần, dì Khâu thừa dịp cha ta vui sướng, đưa ra đề nghị viển vông, để con út tương lai có chỗ cậy nhờ, kiểu gì cũng phải tìm cho chị ruột nó một hôn sự tốt, như vậy đi, nếu Tề lão quốc công đã không ghét bỏ thân phận của cái Sáu, vậy cũng sẽ không ghét bỏ cái Bảy, hay là đến xin ông nội tặng lại hôn sự này cho cái Bảy vậy.

Không thể không nói, dì Khâu và dì của ta quả nhiên ngang sức ngang tài, thảo nào lằng nhằng với nhau tận mười mấy năm.

Người cha vui quên trời đất của ta còn thật sự ngớ ngẩn đến nói chuyện với ông nội, cuối cùng vui quá hoá buồn.

Không có cụ nội ngăn cản, ông nội rất hả giận lấy gia pháp đánh cho cha ta một trận nhừ tử, cha ta không thể xuống giường tận nửa tháng, ngay cả lễ đính hôn của ta đều do bác Cả đỡ ông lộ diện, coi như đủ lễ.

"Anh cho rằng Tề lão công gia coi trọng anh, còn bằng lòng lấy con gái anh làm cháu dâu hả?! Sao không soi gương xem bộ dạng mình thế nào đi, tôi xấu hổ giùm anh đấy!"

Đây là lời ông nội mắng trong khi ra sức đánh cha ta, kỳ thực cũng là nói cho sáu bác trai bác gái nghe.

Hôn sự này vô cùng kỳ quái, ba bác gái đều thông minh, tất nhiên sẽ không tùy tiện hành xử, chỉ có người cha xui xẻo của ta và dì Khâu càng xui xẻo mới ngốc như thế.

Cụ nội qua đời, ông nội có đại tang ở nhà, rảnh rỗi nhàm chán, vốn ủ mưu xử lý cha ta, vậy mà cha ta lại chẳng hay biết gì, lại còn tự dâng lên cửa, đúng là tự muốn ăn đòn.

Vốn dĩ ông nội dự định tôi luyện cha bằng cách cử đến nơi thâm sơn cùng cốc làm thư lại, sửa tính nhà giàu, không mong cha ta hiểu biết tình đời, ít nhất không thể làm gia đình xuống dốc. Nhưng sau chuyện này, ông nội phát hiện cha ta ngu xuẩn vượt quá dự tính, thế là đãi ngộ tăng tiến, cha ta vừa lành vết thương liền bị đưa tới một thành nhỏ nơi hoang mạc Tây Bắc làm giáo dụ biên thuỳ.

Cha ta liền mềm oặt người ra, la hét inh ỏi, bị áp giải lên xe, trước khi đi, tâm tình mẹ cả của ta tốt lắm, bèn triệu tập một đống phụ nữ của cha ta, thăm dò "lão gia ra ngoài nhiều năm không thể không có người hầu hạ, có ai muốn tự nguyện đi theo không?"

Lời vừa thốt ra, các bà vợ bé im phăng phắc, sau đó đồng loạt lùi ra sau một bước, chỉ có dì Lý thường ngày được cha ta yêu chiều nhất không biết bị ai đẩy lên trước, xoay người không kịp, nổi bật trước mọi người.

Mẹ cả vỗ tay cười: "Tốt tốt tốt, tôi biết lão gia thương cô là đúng mà, người đâu, thu xếp hành lý cho dì Lý nhanh lên! Đưa thằng Mười vào phòng tôi, cẩn thận chút kẻo làm nó sợ."

Dì Lý chán nản quỳ xuống đất, mặt mày sợ hãi.

Cha đi được vài ngày, dì Khâu liền im hơi lặng tiếng biến mất, ông nội hận nhất là phận hầu nhúng tay vào hôn sự của cô cậu chủ.

Có người nói bà ấy bị bán đi, có người nói bà ấy bị trầm sông, em Mười Hai cũng được mẹ cả nuôi dưỡng. Đến giờ phút này, ba người con trai một chính hai thứ của cha đều nằm trong lòng bàn tay mẹ cả.

Dì run rẩy hồi lâu, thốt lên: "Phu nhân quả nhiên ghê gớm."

"Dì còn muốn sinh con trai không?" Ta hỏi.

Dì than thở: "Thôi được rồi, lùi một bước biển rộng trời cao."

Mẹ cả cũng không phải người xấu, đến năm em Bảy gần hai mươi tuổi, mẹ cả quả nhiên chuẩn bị ba lựa chọn thành hôn cho em ấy, một là tú tài gia cảnh bần hàn, một là vợ kế nhà quan xuất thân gia tộc lớn, một là thương nhân kinh doanh vải vóc giàu có vùng Giang Nam.

Nghe nói, cuối cùng em Bảy tung xúc xắc quyết định thương nhân Giang Nam.

Năm thứ hai sau khi ta cập kê, dáng người hoàn toàn mảnh mai, thịt mỡ biến mất, biến thành thiếu nữ xinh đẹp đáng yêu, dì thở phào nhẹ nhõm. Vài tháng sau, ông nội trở lại làm quan, hai nhà Tề Thịnh lặng lẽ làm hôn sự.

Đẩy khăn voan đỏ thắm ra, ta nhìn thấy chồng mình, là chàng thiếu niên tuấn tú nghiêm túc, uống xong rượu hợp cẩn, chàng ngồi yên trên giường không nhúc nhích, ta nghĩ, có thể chàng ghét ta không xứng với chàng.

Nhìn giọt nến long phượng nhỏ xuống như giọt lệ, ta tủi thân muốn khóc. Hôn sự này đâu phải ta cầu xin, ta đã chuẩn bị làm phú bà hoặc vợ tú tài mà, chàng không thích ta, cần gì ngoan ngoãn thành hôn.

Ta nhỏ nhẹ: "...Chàng, chàng có phải không thích ta..."

Chồng cứng nhắc xoay cổ, bất giác gật đầu, ta tức khắc tuôn lệ như mưa, chàng luống cuống hoảng hốt, vội vã lắc đầu rồi lại gật đầu: "Không, không, không, ta thích em, không phải không thích..."

Ta nín khóc bật cười.

Kế đến chồng kể cho ta nghe, trước khi thành hôn lão quốc công từng đe doạ cháu trai, nhất định phải đối xử tốt với ta, nếu không sẽ cho chàng một trận. Chồng ngồi trên giường căng thẳng, trầm tư suy nghĩ xem nên làm thế nào mới có thể khiến lão quốc công hài lòng.

Đêm đó, chàng hết sức cố gắng "đối xử tốt" với ta.

Chồng là người chững chạc đoan chính, không biết thế nào mới là niềm vui chốn khuê phòng, lại càng không biết dỗ dành con gái vui vẻ, ta thì lại thích trêu đùa chàng, hai người hợp lại tăng thêm sức mạnh, lâu ngày, chàng càng ngày càng thích nghiêm nghị trước mặt người ngoài, sau lưng vui đùa ầm ĩ với ta.

Cha chồng có lẽ không mấy hài lòng hôn sự này, nhưng vẫn đối xử theo lễ với ta, bà nội không còn, phiền phức duy nhất là mẹ chồng ta, bà không thích ta, nhưng chỉ có một con trai một con dâu, trừ ta ra bà cũng chẳng còn đứa nào mà thích, hơn nữa trừ việc lập quy củ, chẳng còn cách nào gây khó dễ cho ta.

Vào phủ Tề ta mới biết lão quốc công lập ra một quy củ kỳ quái, mẹ chồng không được nhúng tay vào việc của con dâu, biểu hiện cụ thể là không được nhét người vào phòng con trai, lấy vợ bé hay không là việc của vợ chồng nhỏ.

Năm đó Tề Đại phu nhân từng định ra oai phủ đầu cho dâu Cả mới vào cửa, kết quả bị lão quốc công trách mắng ngay trước mặt mọi người trong phủ, mẹ chồng ta xuất thân còn không bằng chị dâu Cả, càng không dám lỗ mãng.

Nhờ gia quy thần kỳ này, ta thuận lợi sinh hạ con trưởng, con thứ, con gái Cả và con trai thứ ba.

Mắt thấy con cháu cuốn gối, trong ngày càng ngày càng ồn ào, mẹ chồng dù không thích ta thì cũng chỉ còn cách dần dần mềm mỏng, trái ôm một đứa, phải ôm một đứa, trong lòng ngồi một đứa, trên cổ treo một đứa, cũng chẳng còn lạnh nhạt với ta được nữa.

Đặc biệt trong tình huống phòng thứ nhất neo người, mình ta sinh con đã đủ vượt qua chị dâu Cả và em dâu Ba cộng lại, mẹ chồng đứng trước chị dâu Đại Tề phu nhân càng ngày càng vẻ vang, mặt mày rạng rỡ.

Năm đó, mẹ chồng cảm lạnh, bệnh mãi không khỏi, ta ngủ bên giường bà, ngày ngày phụng dưỡng thuốc thang, tắm cho bà, thay y phục, bón cơm, chải tóc, thậm chí hầu hạ đi vệ sinh, cứ như thế, tròn hai tháng, mẹ chồng lành bệnh, ta lại gầy rộc một vòng, may mà từ nhỏ luôn khoẻ mạnh nên không bị bệnh.

Dù cho lòng người là đá rắn, ủ lâu ngày cũng phải ấm, mẹ chồng rốt cuộc từ bỏ gương mặt lạnh lùng, kéo tay ta nói: "Con là đứa bé ngoan, trước kia... là ta làm con ấm ức, ta luôn cảm thấy, cảm thấy con không xứng với con ta..."

Bà ấy rớm nước mắt kêu: "Bây giờ xem ra là ta lỗ mãng, lão công gia thật có mắt nhìn, chọn được cháu dâu như con cực kỳ đúng."

Bỏ lòng phòng bị, mẹ chồng liền đối xử thật lòng với ta, coi ta như con gái ruột, chồng thấy thế còn vờ ghen tuông vài lần.

Nghe nói hai người con dâu đều do lão quốc công đích thân chọn lựa, cũng phải, lão công gia tinh nhạy như thế, làm sao lại chọn phụ nữ lòng dạ độc ác được?

"Cuộc đời cha chồng quả thật gập ghềnh." Mẹ chồng thở dài, tâm sự với ta.

Có câu mỹ nam thì khắc vợ, câu này chuẩn trăm phần trăm đối với lão công gia.

Lão công gia tổng cộng lấy ba người vợ, vị đầu là Gia Thành huyện chủ, tân hôn không lâu chết vì "loạn Thân Thìn", nghe nói cách chết rất hổ thẹn. Vị thứ hai là con gái Cả dòng chính nhà họ Thân ở Tấn Nam, trong nhà liên tục có quan to, từng sinh một đôi long phượng thai, đáng tiếc năm đó đi theo lão công gia đến Mân Nam nhậm chức, chẳng may gặp phải bệnh dịch, ba mẹ con đều mất mạng. Vị thứ ba là con gái của cháu đích tôn nhà Khánh Ninh Đại trưởng công chúa, hai vợ chồng vừa kết hôn thì kế thừa tước vị phủ quốc công, phu nhân sinh được hai cậu con trai thì qua đời, tuổi đời chưa được ba mươi.

Năm tiếp theo, vợ chồng Bình Ninh quận chúa cũng qua đời, lão công gia không tái giá nữa, chỉ để lại hai vợ bé chăm lo cuộc sống hàng ngày, tự mình nuôi dưỡng hai con trai nên người.

"Bác Cả và lão gia đều kính trọng cha chồng lắm, cũng rất hiếu thảo, không bao giờ dám trái ý, cha chồng thật sự cũng vất vả, vừa phải lo bên trong vừa phải lo bên ngoài, vừa làm cha vừa làm mẹ." Mẹ chồng than vãn.

"Thực ra hồi ta còn ở nhà mẹ đẻ nghe người ta kể, năm đó cha chồng đến Mân Nam nhậm chức, tất cả mọi người đều khuyên phu nhân Thân thị chớ đi theo, nơi đó khí hậu nóng nực, ẩm ướt, người phương Bắc không hợp thuỷ thổ, hai đứa con cũng còn nhỏ... Ôi, nào ngờ vị Thân phu nhân này nằng nặc đòi theo, không chịu tách khỏi cha chồng một khắc, cuối cùng gây ra thảm hoạ, người nhà họ Thân cũng chẳng thể oán trách..."

"A, chắc là bà ấy và ông nội tình sâu nghĩa nặng." Ta không hứng thú với bát quái cho lắm, nhưng mẹ chồng rõ ràng đang hào hứng, ta đành tỏ ra nhiệt tình hàn huyên.

Mẹ chồng thần bí lắc đầu: "Ta thấy không phải."

Trong lòng ta rất cảm kích lão công gia, chính vì ông hiền từ tử tế mà ta mới có cuộc sống hạnh phúc như ngày hôm nay, ta quyết tâm phải hiếu thảo với ông, nhưng lại không biết phải biểu hiện thế nào.

Cuộc sống hàng ngày của lão công gia cực kỳ đơn giản, thường thích buông câu bên hồ nước, hễ ngồi là mất cả nửa ngày, câu được cá hay không cũng chẳng quan tâm, rảnh rỗi không có việc gì thì không phải đọc sách thì chính là nghe bé con của ta lanh lảnh đọc sách.

Ông bảo chắt gái đọc phần Tiểu Nhã trong "Kinh Thi", đọc "Đào Hoa Nguyên Ký", đọc du ký mà cậu Tư nhà ta viết, cô bé nho nhỏ ngồi xếp bằng trên giường ngúng nguẩy cái đầu, giọng trẻ con non nớt lanh lảnh vang vọng trong thư phòng ngập nắng.

Lão nhân gia ngồi tựa cửa sổ, quay đầu chống tay vọng lại, mỉm cười, thần thái hiền từ hòa nhã, trong mắt vương vẻ u sầu cực nhạt, giống như tầng lụa mỏng giữa sương mù, vừa xa lại vừa gần.

Dường như ông luôn luôn đeo vẻ mặt này, dịu dàng ôn hòa, như gió xuân lướt qua mặt, kể cả ông nội ta đều có mấy đối thủ, nhưng lão công gia tựa như ai đều khen ngợi.

Chỉ có một lần, ta từng thấy ông biến sắc.

Năm đó, cậu Ba trông giống lão công gia nhất đến tuổi thành hôn, song có rắc rối.

Bác gái Cả chọn một cô gái nhà họ Hàn làm dâu, cậu Ba không ưng, cậu ấy thích cô gái nhà họ Cừu, đáng tiếc gia thế họ Cừu tầm thường, khó mà trợ lực cho cậu ấy.

Chuyện đến tai lão công gia. "Để nó tự quyết định." Lão công gia chỉ lên tiếng nhẹ nhàng.

Mấy ngày đó, bác gái Cả liên tục khóc lóc kể lể, khẩn cầu cậu Ba, bác ấy nói thế nào ta cũng đoán được.

Bác Cả sức khoẻ kém, anh Cả cũng yếu, đến nay lại chưa có con, phòng thứ nhất chỉ trông cậy vào một mình cậu Ba.

Còn phòng thứ hai chúng ta, cha con chẳng những trẻ trung khoẻ mạnh, còn có số làm quan, công danh trôi chảy, dưới gối con cháu sum suê, tương lai nếu lỡ như... trước kia lão công gia cũng là con trai phòng thứ hai đấy.

Sau cùng, cậu Ba bị thuyết phục, chán nản đến trước mặt lão công gia, chính miệng nói "con mong được lấy cô gái nhà họ Hàn".

Lão công gia bình thản mỉm cười: "Được, ông nội nhờ người cầu hôn giúp con."

Mọi người nuối đuôi rời khỏi, ta đi sau cùng, vốn định ôm bé con đang ngủ say ở cách vách ra ngoài, trước khi ra cửa, ta chợt nghe thấy một tiếng cười bất đắc dĩ cực kỳ khẽ khàng, tiếng thở dài cực kỳ nhẹ nhàng: "Lại là vậy... lại là như vậy..."

Ta vội vàng ngoái lại, chỉ thấy lão công gia nắm chặt tay thành nắm đấm đứng bên cửa sổ, dõi mắt ra khung cảnh ngoài cửa sổ, gương mặt bình tĩnh xưa nay chợt toát vẻ đau buồn, dường như đánh mất sự tốt đẹp không thể lấy lại được.

Qua rất nhiều năm, đến khi con trưởng của ta có thể đính hôn, bốn bà cô, hai ông cậu, bà nội lục tục qua đời, ông nội cuối cùng cũng nhắm mắt xuôi tay.

Trụ cột chống đỡ nhà họ Thịnh sụp đổ, lão công gia đứng rất lâu trong linh đường, nét mặt tịch mịch trống vắng, song không hẳn đau buồn, dường như không phải đang thương tiếc cho người bạn tốt, mà là thời thanh xuân trai tráng của chính mình.

Vì ông nội công huân lớn lao, thánh thượng chỉ thị cho hai vị hoàng tử đỡ quan tài đưa ma, quả là cực kỳ vinh dự.

Tang lễ long trọng làm kiệt quệ sức khoẻ của cả nhà, ta về nhà thăm hỏi mẹ cả ốm đau, đôi ta theo thường lệ chẳng có mấy lời hàn huyên.

Đúng lúc ta định cáo từ, mẹ cả đột nhiên lên tiếng: "Con biết không? Thực ra tết Nguyên Tiêu năm đó, Tề lão công gia vừa nhìn thấy con liền muốn xin con làm cháu dâu, nhưng lão thái gia không chịu, nói nếu đứa bé không tốt lại làm ảnh hưởng tới nhà bạn thân. Mấy năm sau đó, lão thái gia vẫn luôn âm thầm theo dõi con, thấy con bản tính trung hậu mới đồng ý hôn sự."

Ta kinh ngạc.

Trên đường về nhà, ta luôn chăm chú suy nghĩ đến vấn đề này.

Tại sao lão công gia lại thích ta như thế? Ta lúc thì hơi hơi hiểu, lúc lại chẳng hiểu nổi, vô cùng nhức đầu. Được rồi, đừng nghĩ nữa, nghĩ nhiều quá lại ăn không ngon.

Bạn tốt qua đời, lão công gia cũng dần dần già đi, đến cuối năm đó, thái y nói thẳng: "Cần chuẩn bị hậu sự."

Bác Cả và cha chồng đều hết sức khó chịu, nghẹn ngào bật khóc, bất kể anh em họ từng lục đục thế nào thì vẫn luôn vô cùng kính yêu người cha già.

"Ta đã bảo anh Cả, đợi cha... đi..." Cha chồng khó nhọc tiếp lời: "Chúng ta ở riêng. Con trai nên ra ngoài học hỏi kinh nghiệm, ta sẽ tìm cho nó làm quan một nơi nào đó, bảo con dâu đi theo. Chúng ta ở kinh thành nuôi nấng các cháu."

Mẹ chồng đã già, hoà nhã dịu dàng, nghe vậy chẳng hề bất mãn, cười nhẹ: "Như thế rất tốt. Để tôi bảo chị dâu, sau này chúng ta ở gần nhau chút, dễ dàng giúp đỡ lẫn nhau."

Ta hiểu rõ. Cha chồng và mẹ chồng hoàn toàn từ bỏ, từ bỏ tước vị phủ quốc công, đổi lấy cả nhà yên vui, anh em hoà thuận.

Chồng thong thả dắt ta về phòng, dịu dàng: "Mấy năm nay vất vả cho em. Trong nhà nhiều quy tắc, lại lắm việc phiền hà. Đợi ra ngoài, chúng ta có thể ra ngoài đạp thanh, du hồ chơi thuyền..."

Chàng dán môi lên tai ta, phả hơi thở nóng hầm hập: "Còn thêm một con khỉ nhỏ nữa."

Ta xấu hổ đỏ mặt, khẽ cười, mắng: "Vô lại."

Trước giường bệnh lão công gia, bác Cả và cha chồng cùng nhau thông báo quyết định cho cha già.

Lão công gia hiểu hết, gật đầu mỉm cười yếu ớt: "...Tốt... Anh em các con tự hiểu ra như thế... rất tốt..."

Cánh tay già nua chầm chậm buông xuống, cánh tay từng thanh tú thon dài, giờ đây mềm yếu già nua.

Trừ sản nghiệp tổ tiên, ruộng công huân, ruộng tế, gia sản còn lại chia thành hai, các vị dì già cũng đều được phụng dưỡng, cả quá trình không ai dị nghị.

Tang sự xong xuôi, dì Đinh cầm một cái hộp nhỏ giao cho ta, mỉm cười bi thương: "Đây là lão công gia dặn dò tôi đưa cho Nhị phu nhân, không phải đồ quý giá gì, giữ lại làm kỷ niệm."

Bà ấy ngừng lại, không nén nổi nói thêm một câu, giọng rưng rưng: "Lão công gia vốn từng tặng người, đáng tiếc bị trả về." Nói rồi bà ấy tự biết nhiều lời, bèn vội vã cáo lui.

Đây là một chiếc hộp gỗ nhỏ, khoá đồng nhỏ nhắn cũ kỹ, chiếc hộp xinh xắn khảm ngọc trai, từng đường vân đều làm từ gỗ tử đàn thơm, cho dù cách trở hơn sáu mươi năm vẫn sáng ngời như trước, vương vấn hương thơm.

Ta chầm chậm mở, bên trong là một đôi búp bê sứ.

Thứ này ta rất quen thuộc, là búp bê sứ A Phúc Vô Tích, hồi bé ta còn có mấy bộ, nhưng không được xinh đẹp như thế này, quần áo điệu bộ đều được làm riêng.

Một bé trai, một bé gái, mặc quần áo đỏ thắm vui mừng, béo tròn đôn hậu hiền lành, đáng tiếc vì đã lâu, màu sắc tươi tắn lúc trước phai nhạt đi nhiều, dường như hay được vuốt ve trong lòng bàn tay, nét mặt và vóc dáng sứt mẻ đi nhiều. Ngắm nghía, ta lật hai con búp bê lên, phát hiện dưới đáy ghi chữ, bé gái là "Tiểu Lục", bé trai là "Tiểu Nhị".

Nét mực nhạt nhoà, chắc là viết từ vài chục năm trước, mơ hồ nhận ra nét chữ thanh tú đẹp đẽ.

Ta chợt nghẹn lòng, tự nhủ, người từng được tặng bộ búp bê này, liệu từng thấy bốn chữ này hay không?

Ta đặt bộ búp bê vào hộp, lẳng lặng đi tới thư phòng, ôm lấy chồng từ sau lưng, quẹt má lên gáy chàng. Chồng đặt hồ sơ trong tay xuống, ngoái lại ôm ta vào lòng, mỉm cười: "Sao thế, lại định nghịch ngợm cái gì."

Ta ngơ ngẩn ngắm chàng rất lâu, bỗng dưng lên tiếng: "Này, Tề Tiểu Nhị."

Chồng ngẩn ra, bật cười: "Em lại đến quấy rối."

Đây là biệt danh mà hồi mới cưới vợ chồng họ trêu đùa nhau, chồng cũng nghịch ngợm búng vào mũi vợ: "Này, Thịnh Tiểu Lục."

Ta bỗng đau buồn, nước mắt tràn bờ mi, ta ôm chặt lấy chồng, nhẹ nhàng đáp "ừ".

Tề Tiểu Nhị và Thịnh Tiểu Lục, cả đời này vĩnh viễn ở bên nhau.

Kết thúc

Câu chuyện này bắt đầu với một cô Sáu họ Thịnh, kết thúc cũng ở một cô Sáu họ Thịnh, cuối cùng các nàng đều rất hạnh phúc.

Tất cả rối loạn tình cảm đều bắt đầu với một chàng thiếu niên họ Tề vén rèm bước vào buổi chiều hôm ấy, cũng kết thúc tại thời điểm chàng thiếu niên qua đời, cuối cùng hắn có hạnh phúc hay không, chẳng ai biết được.

Chúng ta hoài niệm bắt đầu với một gia tộc trên đà hưng thịnh, cũng kết thúc khi gia tộc này cực kỳ hưng thịnh, chuẩn bị suy thoái.

Hoa nở hoa tàn, vòng đi vòng lại.

Quốc gia của chúng ta, máu thịt của chúng ta, văn minh của chúng ta đều là như thế.

Tôi muốn miêu tả một thời kỳ thịnh thế phồn hoa, có quân chủ anh minh, có tướng quân quả cảm, có người xảo quyệt, có người giỏi mưu lược, có máu tươi, có thảm thiết, càng có tương lai huy hoàng.

Tôi muốn miêu tả một gia tộc đang leo dốc, có phụ huynh suy nghĩ cặn kẽ, có đàn ông quang minh lỗi lạc, có phụ nữ rắn rỏi xinh tươi, có nước mắt, có tổn thương, càng có đoàn tụ khổ tận cam lai.

Trong bộ truyện "Hồng Phai Xanh Thắm", tất cả những nhân vật chủ chốt từng xuất hiện, bất kể họ từng khóc, từng cười, từng vui vẻ, từng đau buồn, bất kể họ mạnh mẽ, hèn mọn, lương thiện, độc ác, thành công hay thất bại, câu chuyện về bọn họ đã kết thúc rồi.

Sau này, tôi sẽ không viết về bọn họ nữa.

Cảm ơn mọi người, vô cùng cảm ơn.

Đây là một giai đoạn khó quên, rất vui vì được làm quen với mọi người, viết đến đây, tôi thật sự muốn khóc.

Bốn giờ sáng.


Ngoại truyện 7: Thẹn nắng tay che lụa, buồn xuân ngại điểm trang


*Hai câu đầu trong bài thơ "Tặng lân nữ" của nữ thi nhân Ngư Huyền Cơ nổi tiếng đời Đường.

Xa Tam Nương hồi nhỏ theo cha mẹ sinh sống lang bạt khắp nơi, từng có kẻ mù hành nghề bói toán sau khi được nàng cho ăn nửa cái bánh bao chay bèn quyết tâm bói tặng nàng: Xa Tam Nương, cô vất vả cả đời, cho dù tương lai phú quý nhưng vẫn phải vất vả.

Xa Tam Nương khinh thường.

Lừa ai vậy, mọi người đều lăn lộn trên chốn giang hồ, nàng mãi võ mua vui, hắn khua môi múa mép, đều lừa gạt nhau mà kiếm sống, ai mà chả biết tỏng ai, ma mới tin lời nhảm nhí của hắn, có ai giàu sang rồi lại còn phải vất vả chứ.

Rất lâu sau, nàng hồi tưởng lại việc này, không nhịn nổi nghiến răng, thật sự bị hắn đoán trúng rồi.

Hồi nhỏ nàng sống bần hàn, còn nhỏ tuổi đã biết nấu cơm giặt giũ, chăm sóc mẹ ốm, có lúc còn đi theo cha lớn giọng mời chào quần chúng, luyện được tính cách năng nổ tháo vát. Rất nhiều người thích nàng giỏi giang bản lĩnh, đề nghị kết thân.

Năm mười chín tuổi, cha già qua đời, hành nghề thấp kém, đâu chú ý nhiều được lễ số, dù giữ đạo hiếu, nàng vẫn mang theo mẹ già gả cho một kẻ chạy chân mờ nhạt trong Tào bang, tên Thạch Khanh. Nàng hay gọi chồng là Đại Thạch Đầu (Tảng đá lớn).

Bên cạnh Đại Thạch Đầu còn có một Tiểu Thạch Đầu (Tảng đá nhỏ) nước mũi lem nhem.

Hai anh em mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa lẫn nhau, nhưng Đại Thạch Đầu dù sao cũng là đàn ông, mải kiếm tiền nuôi gia đình liền không để ý chăm sóc được trẻ con, cậu nhóc nho nhỏ vừa gầy guộc vừa vàng vọt, quần áo rộng thùng thình, chân đi giầy to đùng, trên tay nứt nẻ, còn cười ngây ngô gọi nàng là chị gái. Xa Tam Nương thương xót, sau này coi như con trai mình mà hết lòng nuôi dưỡng.

Chồng hành xử chững chạc thạo đời, việc lớn vững vàng, việc nhỏ được nàng trợ giúp một tay, thường hay dặn dò. Anh em trong bang có việc, chồng tìm người thương lượng, nàng đứng mũi chịu sào, các anh em xông xáo bên ngoài mà vợ ở nhà có nguy cấp, nàng là chị dâu tự nhiên không thể từ chối. Hai vợ chồng nắm tay nhau cùng gắng sức, chuyện gì nàng cũng bận tâm, chuyện gì nàng cũng phải suy đi tính lại, chỉ e Đại Thạch Đầu đi sai bước nhầm, việc trong việc ngoài, quanh năm suốt tháng nàng lại còn bận bịu hơn cả chồng.

Nhiều người hay cười, bảo nàng dù gọi Đại Thạch Đầu là chủ nhà, nhưng nàng có thể làm chủ nửa cái nhà của hắn.

Liều chết liều sống, cuối cùng xây dựng được một phần sản nghiệp, lại đến vấn đề hôn sự của em trai.

Tiểu Thạch Đầu đi theo anh trai chị dâu mưa dầm thấm đất, không thích thiếu nữ dịu dàng nuôi trong nhà, cũng không thích thiếu nữ chưa từng ra đến trong các gia đình nhỏ. Xa Tam Nương bực dọc bèn tìm một cô tính cách mạnh bạo như chính mình, Tiểu Thạch Đầu nhìn thấy bèn gượng gạo "có cảm giác giống như mẹ, chỉ e không dám vào động phòng". Nó làm Xa Tam Nương tức giận tới nỗi vỗ tay đồm độp!

Thấy Tiểu Thạch Đầu ngày càng lớn, vợ chồng mình lại chỉ có hai đứa con gái, tương lai thừa kế hương khói gia đình còn phải dựa vào cậu em trai này, nhưng chẳng biết em dâu giờ đang ở đâu, Xa Tam Nương sốt ruột tới nỗi miệng nổi nhiệt.

Cuối cùng ông trời có mắt, năm đó Tiểu Thạch Đầu thẽ thọt bảo rằng, nó coi trọng một cô gái, Xa Tam Nương mừng rỡ quá đỗi, hỏi chi tiết ra mới biết là hầu gái sát sườn của Cố phu nhân.

Chồng liền do dự, dù nhà mình hiện giờ tốt xấu coi như có máu mặt, muốn tiền có tiền, muốn thế lực có thế lực, dù cho em trai lấy một cô tiểu thư dòng dõi thư hương cũng không phải việc khó, nhưng lấy người hầu...?!

Xa Tam Nương lại khôn khéo hơn chồng nhiều. Nàng vốn là một cô bé theo nghề mãi võ, xuất đầu lộ diện từ tấm bé, chồng xuất thân thế nào, nói dễ nghe thì là "anh hùng hào kiệt", nói khó nghe thì chẳng qua vào nghề từ côn đồ hành nghề bến sông, nếu thật lấy một cô em dâu dòng dõi cao, chưa nói đến việc bản tính bất đồng, liệu có hòa thuận được hay không, tương lai nếu hai phòng có tranh chấp, em dâu ỷ vào xuất thân mà không chịu phục thì biết giải quyết thế nào.

Chi bằng lấy một cô hầu, một là, chị em dâu xuất thân ngang nhau, nàng làm chị dâu cũng yên tâm, hai là có thể dính dáng quan hệ với phủ Cố hầu, nhất cử nhiều tiện lợi, há chẳng phải tuyệt diệu. Thạch Khanh vốn nghe lời vợ, lại thương yêu em trai, hai điều hợp lại bèn bị thuyết phục, đồng ý lần tới lên kinh sẽ mang theo vợ và em trai, đến lúc đó tìm cơ hội cầu hôn với phủ Cố.

...

Một năm rưỡi sau đó, nhà họ Thạch làm hôn sự thật to, sau khi thành hôn hai đứa vô cùng hòa hợp, đối xử với anh trai chị dâu cũng cực kỳ hiếu thảo, khiến Xa Tam Nương sung sướng dạt dào. Còn em dâu xử sự... nên nói thế nào nhỉ?

Hồi nó mới vào cửa, Xa Tam Nương còn lo lắng tuy nó là cô hầu, nhưng vốn ở bên bà chủ gia đình giàu có, từng quản sự, từng quản người, nếu muốn tranh giành quyền quản gia thì làm thế nào? Không phải nàng không muốn buông tay, mà là người mới vừa tới, nàng không yên tâm.

Sự thật chứng minh, nàng chẳng những lo bò trắng răng, hơn nữa còn tưởng lầm.

Em dâu là đứa chân thành đôn hậu, gần như chẳng lo nghĩ gì.

Bảo nó đi mua nước tương, nó tuyệt đối sẽ không bòn rút hai đồng mua đường ăn, bảo nó trông hai đứa cháu không cho nghịch ngợm, nó bèn trợn mắt nhìn, chị dâu không gọi, nó tuyệt đối không nhúc nhích, bảo nó phát tiền thưởng cho kẻ hầu, nó phát không sai một chút.

Nàng xem sổ sách, em dâu mài mực trải giấy, nàng gọi nàng hầu quản sự đến hỏi việc, nó bèn rót trà quạt mát, nàng rảnh rỗi, tìm các cô vợ của anh em trong bang hàn huyên, nó cười ha ha cắn hạt dưa bên cạnh. Lúc nào cũng vui vẻ, vừa ngoan ngoãn, vừa nghe lời, việc lớn việc nhỏ đều phải nhờ mình quyết định, không biết tính toán nhỏ nhặt một cái gì.

Có lần anh em họ Thạch không ở nhà, nàng muốn ra ngoài, bảo nó quản lý việc nhà nửa tháng, em dâu lập tức nước mắt lưng tròng, tóm tay áo nàng khóc thút thít như con mèo hoa nhỏ: "Chị dâu không ở, em biết làm thế nào? Chị dâu mang em theo với, em nhất định nghe lời, đừng để một mình em ở lại, đừng để em quyết định... em ngốc lắm, sợ bị người ta bán đi mất."

Nàng nổi giận, mắng: "Sao em ngốc thế?!"

Em dâu ngơ ngác: "Lúc ra phủ, phu nhân dạy em sau này cứ nghe lời chị dâu là được."

Nàng chưa từ bỏ ý định: "Phải tự mình quyết định! Em đã lập gia đình rồi!"

Em dâu cười ngây ngô: "Có chị dâu rồi, em tự quyết định làm gì."

Nàng cả giận: "Tương lai ở riêng thì sao? Em tìm ai mà quyết định."

"Chị dâu không cần em nữa?!" Em dâu cực kỳ hoảng sợ, nước mắt tuôn rơi.

Nàng bị nước mắt con bé làm cho sợ hãi, đành phải ra sức dỗ dành, thề chính mình tuyệt đối không có ý đó, khuyên nhủ mãi mới nguôi. Sáu đó, nàng thở dài một hơi, sâu sắc cảm thấy bản thân sinh thêm một đứa con gái, nhưng con gái dù sao vẫn phải lấy chồng, còn em dâu lại hiển nhiên hạ quyết tâm dính nhau cả đời.

Trừ việc thích nhờ mình quyết định hộ, em dâu thật tốt lắm, biết may quần áo, nấu nướng, hầm canh, hai đứa con gái đều thích bà thím ngây ngô, học quy củ, học nữ công với nó, ba đứa líu ríu bên nhau, rất giống chị em ruột.

Em dâu vào cửa năm thứ hai liền sinh hạ một cậu nhóc bụ bẫm, kế tiếp là một chuỗi bé trai bé gái, nhà họ Thạch xưa nay neo người tức khắc đông đúc lên. Nàng sợ hai vợ chồng nhỏ không biết nuôi dưỡng trẻ con liền thường đến giúp đỡ, nào ngờ em dâu dai như kẹo kéo, thả tay giao con cho nàng chăm sóc, chỉ ở một bên giúp đỡ, chẳng hề bận tâm.

"Mai sau chúng nó thân với ta, phớt lờ bà mẹ đẻ như em!" Nàng hung hăng hù dọa.

Em dâu tức khắc ngả vào vai nàng, nũng nịu: "Em cũng thân với chị dâu, chúng ta đều thân với chị dâu, chị dâu tốt nhất."

Nàng đành phải ngẩng mặt thở dài.

...

Sau khi hai con gái đi lấy chồng, nàng quyết tâm nói chuyện tử tế với em dâu.

"Em không thể cứ dựa dẫm vào chị được, cũng phải tự quyết định đi chứ." Nàng tận tình khuyên bảo: "Chị rồi sẽ già đi, nếu ngày nào đó chị và anh trai không còn, khi đó em dựa vào ai?"

Em dâu vẫn ngây thơ ngốc nghếch như cũ, gương mặt hồng hào tròn trĩnh không hề có nếp nhăn lo lắng nào, bật cười ha ha: "Khi đó? Khi đó à, lúc mấy cô vợ thằng Cả thằng Hai vào cửa hả? Để cho chúng nó quản."

Nàng nghẹn họng: "Nếu chúng bắt nạt em thì sao?"

Em dâu lơ đễnh xua tay: "Không sao, em nghĩ kỹ rồi. Mai này các con thành gia lập nghiệp hết, em liền về bên cạnh phu nhân hầu hạ, sống cuộc sống về già với phu nhân. Có phu nhân ở, không sợ có kẻ dám bắt nạt em."

Nàng trợn mắt to như chuông đồng: "Em, em, em nói cái gì cơ...?"

Em dâu say sưa: "Em kính nể Phòng ma ma lắm, từ khi còn bé tí đã nghĩ nếu có thể được như bà ấy, hầu hạ phu nhân đến già thì thật là tốt."

"Chờ, chờ, chờ một chút." Xa Tam Nương vốn lên sắc bén cả đời há hốc mồm: "Chị nhớ vị Phòng ma ma đó là trung niên mất chồng, sau đó mới về hầu hạ bà cụ họ Thịnh mà."

Em dâu chớp mắt, nghiêng đầu: "Có lẽ, có lẽ... lúc đó em cũng là quả phụ, chưa biết chừng..."

Chưa đợi Xa Tam Nương mở miệng, phía sau vang tiếng gầm rú: "Em nguyền rủa tôi chết sớm hả!" Cậu Thạch nổi giận đùng đùng đứng trước cửa. Hai đứa nó tức thì bắt đầu mỗi tháng một ngày đấu khẩu ầm ĩ.

Xa Tam Nương vô lực nhìn lên nóc nhà, thôi được rồi, nàng lại phải khuyên can rồi.

Nhiều năm về trước, nàng biết bản thân không thể sinh nở nữa, vốn tưởng rằng sau khi con gái lấy chồng, nàng và chồng không khỏi về già cô đơn, ôi, nhìn đi, cô đơn cái con mẹ nó chứ!


Bình luận văn minh lịch sự là động lực cho tác giả. Nếu gặp chương bị lỗi hãy "Báo lỗi chương" để BQT xử lý!
Sau khi sửa lỗi kết quả sẽ cập nhật tại trang Truyện mới cập nhật