Trao duyên

cảm nhận về đoạn Trao Duyên




  1. Theo mạch truyện, Thúy Kiều và Kim Trọng cùng nguyện ước "Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương" thì tai biến xảy đến đối với hai người. Với Kim Trọng, chàng phải về quê hộ tang chú ruột vừa bớt nỗi buồn chia lìa thì đã thấy:

Người nách thước, kẻ tay đao,

Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.

Già giang một lão một trai,

Một dây vô loại buộc hai thâm tình.

Không đành lòng nhìn cha và em bị tra khảo dã man, Kiều quyết định bán mình để cứu cha và mẹ. Việc bán mình đã thu xếp xong xuôi, Kiều ngồi trắng đêm nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi nàng nhờ em gái là Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Đoạn trích sau đây (từ câu 723 đến câu 756) là lời Thúy Kiều nói cùng Thúy Vân.

Trước hết là lời Kiều nói với Thúy Vân:

"... Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa."

Hai câu thơ không thuần về lời nói mà còn có cả cử chỉ nhưng đều chung một trạng thái cầu mong. Riêng cử chỉ "lạy" đã đặt Thúy Vân vào tình huống khó mà từ chối được. Đây là dấu hiệu của người vĩnh biệt đối với kẻ ở lại càng đáng thay mọi việc mà đáng ra mình phải làm, ngoài ý nghĩa tôn kính người đã khuất, ông bà... và những người có đạo đức cao dày.

Và Kiều đã "thưa" điều gì với Thúy Vân?

Kiều đã kể lại chuyện tình của mình:

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.

Chỉ hai câu thơ ngắn, từ "khi" được lặp lại ba lần như để biểu lộ Kiều và Kim Trọng đã nhiều lần hẹn hò gặp gỡ, và yêu nhau một cách sâu đậm, chân tình mà phần trước của truyện đã từng miêu tả,

Tiếp đó, Thúy Kiều gợi lại hiện thực

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tinh khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Hai câu thơ chỉ là phần nổi của sự đấu tranh giữa lí trí và tình cảm cùa bản thân Kiều. Hiếu với cha tình với Kim Trọng mà Thúy Kiều phải chọn lựa và Kiều đã chọn việc trả hiếu cho cha mẹ đúng với quan niệm của Nho gia Đạo "vua - tôi; cha - con; chồng - vợ". Do đó, trong tâm linh của Thúy Kiều phải có cuộc xô xát, phải có cuộc dằng co giữa hai động tác tâm lí: hiếu và tình. Sự thắng hay bại của động tác này hay động tác kia, sẽ chi phối của cuộc đời tương lai của Thúy Kiều. Ở đây, ta thấy Thúy Kiều đã chọn chữ hiếu và hi sinh tình yêu, và như thế Nguyễn Du đã mở cho ta một cửa sổ để thông suốt được cái viễn ảnh của thân thế Thúy Kiều về sau này.

Chọn việc bán mình để cứu cha và em cho tròn đạo hiếu nhưng Thúy Kiều vẫn suy tính cho tình yêu của chàng Kim. Nàng đã cầu xin Thúy Vân:

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Bốn câu thơ như là lời cầu xin xuất phát từ tận đáy lòng của Thúy Kiều, như là lời tràn trôi trước khi mất. Cái khéo léo của Kiều là lồng niềm vui iược "thơm lây" vào những lời bi lụy khiến Thúy Vân có không muốn cũng khó thể chối từ. Ngay cả khi trao "chút của tin", Thúy Kiều vẫn nhớ đến đêm thề nguyền khi nàng sang nhà Kim Trọng, chàng Kim đã thêm hương vào lò hương, sau khi thề nguyền, nàng đã đánh đàn cho Kim Trọng nghe. Tiếp theo Kiều đã thốt ra những lời mà có lẽ người đọc nghe cũng cảm thấy lạnh người báo hiệu Kiều sẽ chọn cái chết:

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Lại nữa, Thúy Kiều giữa khi đối thoại với Thúy Vân, thế mà trong 6 câu chót, nàng hình như quên hẳn Thúy Vân đang đứng trước mặt mình và chỉ còn nhớ lại có mỗi người tình mà thôi:

"Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phận sao, phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng".

Quên Thúy Vân để chỉ nhớ đến Kim Trọng, hình ảnh của Thúy Vân mờ đi, và hình ảnh của Kim Trọng hiện ra sau cùng càng rõ rệt. Càng phân trần, tự trách cho duyên phận lỡ làng thì nỗi đau đớn bẽ bàng càng tăng cao... cho tới đỉnh điểm khi Kiều thốt lên lời tạ lỗi đau đớn nhất:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

3. Lẽ khinh trọng văn chương đã được ứng dụng một cách rất tài hoa tinh tế ở đây, và nghệ thuật của tác giả Đoạn trường tân thanh thật là tuyệt vời trong đoạn trích này.

Ngoài ra, Nguyễn Du còn có thuật kể chuyện rất tài tình. Chỉ có hai câu thơ là đủ tả hết tất cả những tình tiết thơ mộng trong cuộc đời tình duyên tuổi hoa giữa Kim Trọng và Thúy Kiều trước kia:

"Kể từ khỉ gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề..."

Cách dùng chữ thì rõ thật đắc thể và khéo léo. Một chữ "hở môi" đối chiếu với một chữ "để lòng" đều là những chữ hết sức bình thường.

"Hở môi ra cũng thẹn thùng,

Để lòng, thì phụ tấm lòng với ai!"

Được đặt vào đây đã hình dung được tất cả cái ngượng ngập, sượng sùng của người chị Thúy Kiều, khi phải thổ lộ mối tâm tình riêng tư thầm kín với chính người em gái máu mủ của mình là Thúy Vân vậy.  







2. Trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật qua đoạn Trao duyên


Nói tới Nguyễn Du là nói tới một hiện tượng vô song của văn học Việt Nam. Với "lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu", Truyện Kiều đến bây giờ vẫn là mẫu mực cho nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Đoạn trích "Trao duyèn" có thể được xem là một minh chứng cụ thể cho tài năng ngôn ngữ bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du.

Vấn đề sử dụng ngôn từ bao giờ cũng được quan tâm hàng đầu của người cầm bút. Nhà văn chỉ có thế gửi gắm những suy nghĩ, những quan điểm của mình qua ngôn ngữ. Không rèn câu, luyện chữ thì không thế tạo ra những tác phẩm có giá trị. Nhưng những từ ngữ cầu kì, gọt rũa một cách không cần thiết lại trở nên vô duyên và sáo rỗng. Chính vì vậy để ngôn ngữ thăng hoa cần đến cả cái "tài" và cái "tâm".

Ngôn ngữ nghệ thuật hay còn gọi là ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ văn học đòi hỏi phải có tính gợi hình, gợi cảm. Đó là ngôn ngữ được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ để đạt được giá trị nghệ thuật - thẩm mĩ cao.

Cũng như các phong cách ngôn ngữ khác, ngôn ngữ nghệ thuật trước hết đảm bảo chức năng thông tin. Gia đình Kiều gặp cơn tai biến. Bao ngày tháng êm đềm. hạnh phúc bỗng chốc trở thành ảo ảnh xa xôi. Kiều buộc phải bán mình chuộc cha, gác lại mối tình đầu vừa mới chớm nở với chàng Kim. Trong hoàn cảnh đó, nàng đã trao duyên cho em là Thúy Vân, mong Thúy Vân giúp nàng làm tròn nghĩa tình với Kim Trọng. Những chi tiết ấy, người đọc chỉ biết được khi tiếp cận với tác phẩm, qua lớp ngôn từ. Nhưng Truyện Kiều hấp dẫn người đọc không phải ở nội dung mà nó thông báo. Hơn bao giờ hết, Nguyễn Du đã để lại cho văn học dàn tộc những trang thơ tuyệt tác. Nếu Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho thơ nôm thì Nguyễn Du là người đưa nó đến đỉnh cao. Ngôn ngữ Truyện Kiều trong sáng, giản dị mà tinh tế. Nỗi đau khổ, dằn vặt của Thúy Kiều, sự xót xa cay đấng cho thân phận, sự nuối tiếc một tình yêu, sự băn khoăn cảm thấy có lỗi với chàng Kim..., tất cả những tâm trạng đó đã được Nguyễn Du miêu tả rất thành công. Bởi lẽ ông hoàn toàn nhập thân vào nhân vật, đồng cảm và thấu hiểu. Chẳng phải thế mà Mộng Liên Đường chủ nhân đã nhận xét: "Nguyễn Tố Như viết Kiều như có máu rỏ trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua tờ giấy".

Vẻ đẹp ngôn ngữ trong đoạn trích trước hết thể hiện ở tính hình tượng. Đó là khả năng ngôn ngữ gợi lên những hình ảnh làm các nhân vật như chuyển động và hiện hữu như ngoài đời. Chỉ với hai câu thơ:

"Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"

Tác giả không những khắc họa được cử chỉ, hành động của Kiều mà còn thể hiện được suy nghĩ, ý nguyện của nàng. Thúy Kiều là chị nhưng khi nhờ em lại dùng từ "cậy". Kiều lại dùng từ "chịu" chứ không dùng từ "nhận" để hỏi ý kiến Thúy Vân. Đó hẳn không phải là cách dùng từ "ngẫu hứng". Thúy Kiều hiểu rằng việc nàng sắp nói ra là một điều hệ trọng mà Thúy Vân khòng có quyền lựa chọn. Và Nguyễn Du đã để nàng kể lại câu chuyện ấy... Chuyện tình yêu vốn của riêng hai người nên khi phải kể cho người thứ ba, Thúy Kiều đã cố lược di những chi tiết rườm rà. Đó là sự tế nhị của một người con gái sâu sắc, Nguyễn Du đã truyền tải điều đó như thế nào? Chỉ với hai hình ảnh: "quạt ước", "chén thề", tác giả đà vẽ nên một không gian tình ái mà chỉ Kiều và Kim mới biết, chỉ "vầng trăng vằng vặc giữa trời" là nhân chứng. Rồi "chiếc vành với bức tờ mây", hay "phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"... những đồ vật ý nghĩa tưởng chừng rất giản đơn ấy đã gợi dậy trong Kiều những kỉ niệm mãnh liệt của thời yêu thương. Và dường như chúng khiến Kiều không còn đủ sáng suốt. Nàng "Trao duyên" cho Thúy Vân nhưng "tình" thỉ không.

"Duyên này thì giữ, vật này của chung".

Kể cả khi Kiều nghĩ đến cái chết, thì tình nghĩa ấy vẫn không thôi rực cháy: "Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghi trúc mai"...

"Bồ liễu", "trúc mai" vốn là những hình ảnh tượng trưng quen thuộc trong văn thơ bác học. Nó xuất hiện trong câu thơ mang lại tính hàm súc. Cũng một nghĩa là đền đáp tình cảm của Kim Trọng nhưng câu thơ còn gợi lên cả dáng điệu mảnh mai. yếu ớt của Kiều, cả mối tình hai người vun đắp.

Tác giả không nói với chúng ta về sự đau khổ, không nói về tình yêu thiết tha của Thúy Kiều nhưng tiếng kêu: "Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!" đã nói lên tất cả. Kim Trọng với Kiều đã không đơn thuần là người yêu mà là một đức lang quân, một người chồng mà nàng trao thân gửi phận. Vị trí của Kim Trọng trong trái tim nàng thật vô cùng to lớn.

Cứ hiện lên trên từng cầu chữ một bóng dáng tội nghiệp, vật vã của nàng thiếu nữ xinh đẹp mà bạc phận. Cứ hiện lên trong trang thơ những giọt nước mắt đắng cay cho thân phận của nàng Kiều. Điều mà chúng ta cảm nhận được chính là do tính hình tượng của ngôn từ nghệ thuật và tính truyền cảm của nó. Hẳn rằng Nguyễn Du cũng đã khóc rất nhiều cùng nhân vật, hẳn rằng nhà thơ đã xót xa đau khổ rất nhiều. Để bây giờ trở thành "người cho máu" nói như En-xa Tri-Ô-Iê, làm rung động tâm hồn bạn .đọc nhiều thế hệ. Chắc chắn rằng không chỉ có một Nguyễn Du mà còn có muôn triệu con ugười cùng chung nhịp đập với tác giả và nhân vật của ông. Thương cho cuộc tình duyên của Kiều, lại càng thấm thía những điều:

"Lạ gì bỉ sắc tư phong

Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen"

Càng căm ghét xã hội mà con người phải chịu tước bỏ những giá trị tinh thần đẹp đẽ, thiêng liêng nhất chỉ về thế lực "cường quyền" và "đồng tiền".

Vẻ đẹp ngôn ngữ trong đoạn trích còn thể hiện ở tính cá thể hóa. Cả đoạn trích là lời Thúy Kiều cùng những giằng xé nội tâm đau đớn. Kiều tỏ ra là người sâu sắc, có ý chi khi trao duyên cho Thúy Vân. Nhưng rồi nàng lại chìm sâu vào dòng tâm tưởng với những hồi ức, với viễn cảnh tương lai và bi kịch tinh thần, để rồi sau tiếng gọi tưởng chừng đứt ruột "Ôi, Kim lang, hỡi Kim lang!". Nàng hoàn toàn khủng hoảng, sụp đổ vì nỗi đau đứt ruột:

"Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng"

Nguyễn Du rất tài tình khi khắc họa nhân vật của mình. Một Thúy Kiều thông minh, sắc sảo, tinh tế, ý nhị nhưng nàng vẫn là một con người, một người con gái yếu đuối, một người trong lưới tình giăng mắc Trong Thúy Kiều ta thấy mọi phụ nữ, nhưng cũng lại không thể nhầm Kiều với ai khác được. Đó chính là nhờ tính cá thể của ngôn ngữ nghệ thuật. Qua đoạn trích, ta cũng phần nào thấy được phong cách nghệ thuật Nguyễn Du. Một giọng điệu rất riêng: thiết tha, đằm thắm mà chỉ Tố Như bằng ngọn gió yêu thương của tâm hồn mình mới tạo ra được.

Còn nhớ Nguyễn Du Trong Truyện Kiều từng mượn lời nhân vật khác để khen Thúy Kiều:

"Khen tài nhả ngọc phun châu

Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này ".

Thiết nghĩ lời ấy dành cho Truyện Kiều cũng hoàn toàn xứng đáng. Truyện Kiều - một hòn ngọc vô giá trong kho tàng văn học dân tộc.





3.  Cảm nhận về đoạn Chí khí anh hùng của Nguyễn Du


Thúy Kiều phải vào lầu xanh với tâm trạng:

"Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?"

Tại đây, Kiều gặp Thúc Sinh, người được xem là "tri âm" đối với Kiều. Nhưng vì nhu nhược, Thúc Sinh không giữ được Kiều khiến nàng lại rơi vào yay Bạc Bà, Bạc Hạnh, và phải làm gái lầu xanh lần nữa.

Cuộc đời Kiều tưởng như bế tắc hoàn toàn thì Từ Hải bỗng xuất hiện và đưa Kiều thoát khỏi cảnh ô nhục. Hai người sống hạnh phúc "Trai anh hùng gái thuyền quyên - Phỉ quyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng". Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm bên cạnh nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích (từ câu 2213 đến câu 22300 bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thoại cho thấy chí khí của Từ Hải.

Trong "Truyện Kiều", nếu nhân vật Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng như một biểu tượng cho cái đẹp tinh túy, lí tưởng của hiện thực cuộc sống thì nhân vật Từ Hải, qua đoạn trích "Chí khí anh hùng", lại được Nguyễn Du xây dựng như một hình tượng đầy tính chất lãng mạn, chất anh hùng ca. Mở đầu đoạn thơ.

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

Bốn câu thơ là lời của tác giả miêu tả về tâm trạng và hành vi của Từ Hải. Nhà thơ gọi Từ Hải là "trượng phu" - người đàn ông có tài, đáng trọng là đã thể hiện sự yêu quý trân trọng của ông với nhân vật này. Tình yêu và sự nghiệp, cả hai đều có trong con người của Từ Hải. Tình yêu ấy là "nửa năm hương lửa đương nồng", sự nghiệp ấy là "động lòng bốn phương". Những ngôn từ ước lệ ấy giúp người đọc nhận ra cả hai thứ tình ấy Từ Hải đều quý. Và chỉ ở bôn câu thơ trên mà xét thì "động lòng bốn phương", muốn lập công danh sự nghiệp mạnh hơn "hương lửa đương nồng". Cứ tưởng tượng ra hình ảnh của một tráng sĩ "râu hùm, hàm én, mày ngài" đứng khoanh tay lặng hướng tầm mắt vào cõi xa xăm thì người đọc sẽ hiểu phần nào tâm trạng lúc này của con người:

Giang hồ quen thói vẫy vùng

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chào".

Những hình ảnh ước lệ, thậm xưng, đặc tả, kết hợp với các từ Hán Việt trang trọng, cùng với cách ngắt nhịp cân xứng, mạnh mẽ trong các dòng thơ chứa tầm vóc, tài năng, chí hướng nêu trên như đã khẳng định và in sâu tính cách một nhân vật phi thường với tâm hồn chứa chan lãng mạn ước mơ, tung hoành ngang dọc, muốn đổi thay thời thế nhân sinh... Trong ý nghĩa đó, phải chăng hình ảnh Từ Hải đã thành ước mơ khát vọng trong tâm hồn Nguyễn Du: Ông muốn cứu vớt đời Kiều, một tâm hồn, một vẻ đẹp, một tài năng tiêu biểu cho một tinh hoa của hiện thực cuộc đời?

Sau lời của nhà thơ viết về tâm trạng và quyết định của "trượng phu" là lời đối thoại của đôi vợ chồng. Kiều thì muốn hành động theo luân lí đạo Nho truyền thống nên đã tâm sự với Từ Hải:

Nàng rằng: "Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".

Kiều một lòng xin được theo Từ trên từng bước chàng đi cho tròn luân lí mà Nho giáo đã định ra: Là phận nữ nhi thì "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử". Ca dao ta cũng có câu:

Đi đâu cho thiếp theo cùng

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam

Đây là về lí luận. Thật ra có lẽ Kiều xin theo Từ Hải là vì tình, là vì sau bao năm bị vùi dập bởi sóng gió lầu xanh Kiều đã tìm được người bạn tri âm.

Nhưng với Từ Hải thì khác. Chàng đã đáp lại:

Từ rằng: "Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?"

Từ Hải đã có ý trách Kiều, nhưng đó là lời trách đầy yêu thương: Đã là người hiểu biết nhau sâu sắc đến vậy sao cứ giữ mãi nếp suy nghĩ nông cạn của người phụ nữ bình thường!

Sau lời trách nhẹ nhàng đầy tình thương yêu ấy, Từ Hải mới giải thích rõ ràng. Từ phải chiêu mộ binh sĩ giỏi, làm những việc xuất chúng. Người đọc có thể suy ra là Từ chiêu mộ tướng giỏi binh hùng để lập nước, trị quốc. Với ông việc như thế thì

Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đấy là một hiện thực trong đời của con nhà lính. Từ đã trình bày cho Kiều hiểu rõ ngọn nguồn. Đó là về lí, mà cái lí ấy Từ nêu ra cũng vì tình. Từ đã khuyên Kiều:

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!"

Cùng với lời hứa:

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Với lí lẽ và lời hứa rõ ràng ấy chắc Kiều chẳng nói thêm được điều gì. Và dù có nói điều gì chăng nữa thì Từ Hải cũng:

Quyết lời dứt áo ra đi,

Gió mây bàng đã đến kì dặm khơi.

Mạnh dạn, dứt khoát và nhanh nhạy là vì nghĩa cùa hai câu thơ mang hình ảnh ước lệ trên. Đã một lần người đọc biết hành động cao đẹp nhanh gọn dứt khoát không tính toán của Từ Hải khi chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh. Nay cũng với tính cách ấy, Từ Hải hành động không chỉ vì tương lai của chàng mà còn vì cả Thúy Kiều. Trước mắt người đọc, hình ảnh Từ Hải cùng tinh binh phóng ngựa tiến về phía trước để lại đằng sau đám bụi mù thay cho hình ảnh ước lệ chim bằng bay lên cùng gió mây.

Đã hơn một lần Nguyễn Du tập trung khác họa chân dung Từ Hải. Một chân dung mà ngoại hình thật khác thường.

"Râu hùm, hàm én, mày ngài

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao".

Một chân dung mà tài năng cái thế:

"Đường đường một đấng anh hào

Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài".

Một chân dung mà phong thái thật anh hùng, chí hướng bay bổng ước mơ:

"Đội trời, đạp đất ở đời"

Và bây giờ với đoạn trích Chí khí anh hùng, một lần nữa càng chứng tỏ tài miêu tả, khắc họa nhân vật của nhà thơ Nguyễn Du. Cũng với các biện pháp ước lệ, nghệ thuật tượng trưng kết hợp với đối thoại quen thuộc của thể văn cổ nhưng khi Nguyễn Du vận dụng vào việc khắc họa nhân vật Từ Hải. Trong đoạn trích trên thì nghệ thuật ấy lại được phối hợp sáng tạo tuyệt hảo để người đọc đâu thể dễ dàng quên ngay được một nhân vật cái thế anh hùng, một tâm hồn mang bao hoài vọng của nhà thơ.





  4.Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn thơ Trao duyên


Mười năm lưu lạc của Thúy Kiều là một tấn bi kịch triền miên chất chứa bao nỗi đau đớn, thảm sầu. Mối tình đầu đẹp đẽ, trong sáng giữa nàng với Kim Trọng đã sớm bị sóng gió cuộc đời làm cho tan vỡ. Sau khi bán mình chuộc cha để báo đền chữ hiếu, Kiều đã âm thầm khóc thương cho lời nguyền vàng đá với chàng Kim. Nàng đành cậy Thúy Vân thaymình gắn bó với chàng. Trao duyên là nỗi đau đớn, nỗi đau đầu đời của người con gái tài sắc - Thúy Kiều.

Trong đêm gia biến: Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo dầm giọt lệ tóc se mái sầu. Nàng sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính minh là thủ phạm gây ra nỗi bất hanh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một nhưng thương người yêu mười nên cắn răng cam chịu số phận đen bạc của mình: Phận dầu, dầu vậy cùng dầu để nghĩ đến nỗi đau của Kim Trọng:

Công trình kẻ biết mấy mươi

Vì ta khăng khít cho người dở dang!

Thề hoa chưa ráo chén vàng

Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa

Thúy Kiều mang nặng mặc cảm là người có lỗi. Nàng tự trách mình khăng khít, khiến cho người dở dang. Đúng ra là cả hai chủ động tìm đến nhau, yêu nhau và tự nguyện gắn bó với nhau. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương tột bậc.

Một mình một bóng, đối diện với tâm trạng rối bời, tan nát, Kiều chỉ biết âm thầm khóc than cho gia cảnh, cho duyên phận. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ một cách có thể cứu vãn phần nào cho mối lương duyên của mình, đó là trao duyên cho em gái. Và Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em vô tư ấy vừa chợt tỉnh giấc xuân.

Thấy Kiều khóc lóc ủ ê, Thúy Vân gạn hỏi nguyên do và cũng lờ mờ đoán biết chị mình đang mắc mối tình chi đây. Kiều trao duyên cho em mà trong lòng băn khoăn, bối rối:

Rằng: lòng đương thổn thức đầy

Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong

Hở môi ra cũng thẹn thùng

Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.

Nàng thẹn thùng khó nói vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim - mối tình mà chỉ hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, cho dù là em mình đi nữa cũng không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua mà đã thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tám; nó trở thành thiêng liêng, khó có thế đổi thay. Nay nhờ Vân thay thế mình, Kiều sợ chắc gì Vân đã nhận lời.

Kiều lâm vào tình thế khó xử; không nói không được mà nói ra thì e ngại. Bởi thế nên nàng đắn trước đo sau, băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt ra được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng.

Cậy em, em có chịu lời

Ngồi lèn cho chị lạy rồi sẽ thưa

Lời gì vậy? Đó là lời nhờ Vân thay chị nối tình với chàng Kim. Đề nghị ấy thật bất ngờ ngay cả đối với Thúy Kiều bởi trước đó nàng chưa hề nghĩ đến. Cả một đêm thức trắng, nàng đâu có nghĩ ra điều này. Nàng chỉ có đau khổ, giày vò. Nhưng từ lúc Thúy Vân thức giấc và tỏ ra thương chị, nàng như vụt thấy một làn chớp sáng: Đây rồi, cô em gái này có thế' giúp mình trả món nợ tình. Đề nghị ây cũng bất ngờ đối với Thúy Vân bởi nó quan trọng quá, nó ảnh hưởng đến cả cuộc đời. Nhận lời lấy một người đâu có dễ dàng, đơn giản như nhận một món quà? Vậy dựa vào đâu mà Thúy Kiều dám đề ra ý kiến ấy và hầu như ép Thúy Vân phải nhận lời? Chỉ có cơ sở duy nhất đúng đắn là tình thương. Chị thương em. tin rằng em sẽ nghe lời. Chị cũng biết em thương chị, không nỡ trái ý chị. Còn em, tuy chẳng hiểu đầu đuôi ra sao nhưng lại thật tình thương chị riêng gánh chịu nỗi oan khố cúa cả gia đình, lại đang đau xót vì môi tơ duyên đứt đoạn nên dù chưa kịp nghe hết lời giãi bày, chắc cũng đã thấu hiểu lòng chị.

Người ta hỏi: Tại sao Thúy Kiều không dùng từ nhờ mà lại dùng từ cậy? Không dùng từ nhận mà lại dùng từ chịu? Chính vì giữa các từ ấy có một sự sai biệt khá tinh vi. Đặt nhờ vào chỗ cậy, không những thanh điệu câu thơ sẽ nhẹ đi, âm thanh không dọng ở chữ thư nhất của câu thơ nữa mà còn giảm đi cái quằn quại khó nói của Kiều, cái ý nghĩa hi vọng thiết tha của một lời trói trăng, ý nghĩa nương tựa, gửi gắm của một tâm lòng tuyệt vọng, ý nghĩa tin tưởng vào tình cảm ruột thịt. Giữa chiu và nhận thì dường như còn có vấn đề tự nguyện hay không tự nguyện nữa. Nhận lời có lẽ có nội dung tự nguyện: còn chịu lời thì hình như chỉ có một sự nài ép phải nhận vì không nhận không được. Trong tình thế của Thúy Vân lúc bấy giờ, chỉ có chịu lời chứ làm sao nhận lời được?

Câu thơ sáu chữ giản dị mà chứa đựng tất cả chiều sâu của một tình thế phức tạp. Điều đó càng làm cho nó có dáng dấp như một lời cầu nguyện.

Kiều yêu cầu Thúy Vân: Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa vì nàng coi sự chịu lời của Thúy Vân là một hành động hi sinh. Đối với cử chỉ hi sinh ấy thì chỉ có kính phục và biết ơn. Thúy Kiều lạy em là lạy sự hi sinh cao cả ấy.

Trong những giây phút đau đớn, tôi nghiệp này, Kiều vẫn quên mình để suy nghĩ đến người yêu. Nỗi buồn của nàng cần phải được san sẻ cho vơi bớt.

Sau cái phút ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ mà dang dở của mình:

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Tâm sự về nỗi khó nghĩ, khó lựa chọn giữa tình và hiếu:

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Là người con có hiếu, Kiều đã bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó trả:

Nợ tình chưa trả cho ai

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan

Ý nghĩa này cho thấy Thúy Kiều đau khổ biết chừng nào và cũng cao cà biết chừng nào! Nàng van lơn em gái hãy xót tinh máu mủ thay lời nước non mà bằng lòng kết duyên với chàng Kim. Nhắc tới chàng, Thúy Kiều càng sầu, càng tủi cho thân phận. Tưởng chừng như nỗi đau theo nước mắt tuôn rơi:

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Tưởng tượng ra cái chết thê thảm cũng là biểu hiện của sự thương thân, nhưng Kiều tự an ủi rằng vong hồn mình nơi chín suối hãy còn thơm lây với cái đạo đức thơm tho của em. Kiều nói với em những lời gan ruột như thế, hỏi Thúy Vân sao nỡ chối từ?

Ngôn ngữ của Kiều ở đoạn này là ngôn ngữ của lí trí. Tuy Kiều là cô gái rất giàu tình cảm nhưng đối với chuyên trọng đại của cả một đời người này, nàng không thể dùng tình cảm của mình mà thuyết phục được em. Phải bình tĩnh mà dùng lí lẽ, phân tích thiệt hơn, phải trái để em hiểu mà bằng lòng giúp.

Trước lời nói có lí, có tình thiết tha của Thúy Kiều, Thúy Vân chỉ còn biết im lặng lắng nghe và như thế có nghĩa là nàng chấp nhận. Đến đây Thúy Kiều mới nhẹ lòng và nàng lấy kĩ vật tình yêu giữa mình với Kim Trọng ra trao cho em gái:

Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Nếu như ở đoạn trên, Kiều kể mối tình cho em nghe bằng giọng điệu cố lấy vẻ bình tĩnh thì đến lúc này, trao lại kỉ vật cho em, nàng cảm thấy đã mất hết nên không thể kìm nén được tình cảm của mình nữa, trái tim đa cảm bắt đầu lên tiếng. Nàng nói: Chiếc vành với bức tờ mây vẫn bằng tiết tấu của mấy câu thơ trên, nhưng đến câu: Duyên này thì giữ vật này của chung nghe như đã có tiếng nấc nghẹn ngào ở trong đó. Duyên này là duyên giữa Thúy Vân với Kim Trọng, phần nàng đã hết. Duyên chị đã trao lại cho em, nhưng kỉ vật này xin em hãy coi có một phần của chị, nó là của chung. Rò ràng lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng thì không thể.

Mối tình đầu thơm, tho, ngọt ngào nhường ấy, bỗng chốc bảo quên, quên làm sao được? Gửi lại trong chút kỉ vật này vậy. Giữa lúc tột đỉnh đau thương, Kiều vẫn cố tìm lấy một chút an ủi. Sau đó, Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn. Nàng nói với em bằng tiếng nói khác của lòng mình. Ngôn ngữ nàng không còn cái. mạch lạc, khúc chiết của lí trí nữa mà thuần là của tình cảm, của cả ảo giác. Càng nói càng xót xa cho duyên phận bất hạnh của mình. Nàng nói rõ mình mệnh bạc, tình mình mất đi và bao nhiêu nỗi niềm ngày xưa nay chỉ còn có phím đàn với mảnh hương nguyền:

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Động đến tương lai chác chắn mù mịt, nàng đâu còn giữ được sự yên ổn trong lòng phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu, Kiều chới với không biết bám víu vào đâu. Kiều tưởng tượng đến lúc Vân và chàng Kim nên vợ nên chồng, đến cõi hư không mà nàng chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây nhưng vẫn vướng chặt với tiếng tơ trên phím đàn và mùi hương của mảnh trầm ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai cho người. Nàng đinh ninh mình sẽ là một hồn oan trong cõi chết và dặn em rưới cho giọt nước làm phép tẩy oan.

Có mâu thuẫn không?

Trên kia Thúy Kiều đã chẳng nói là nếu được Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thế mà chỉ trong giây lát tưởng tượng, .nàng đã trở lại với bao nỗi xót xa còn nặng nề hơn trước. Chút yên lòng đã bay đâu mất!

Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vi người; nay lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng không chỉ chới với trong tương lai mịt mù, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường mà như nửa tỉnh nửa mê, nửa phần là người sống, nửa phần là hồn ma. Và tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng lời nàng phảng phất như lời từ cõi bên kia vọng về.

Đoạn thơ cùng chợt đổi giọng. Hình ảnh âm điệu như chập chờn bay hết nét thật, có cái gì đó thật hư ảo: thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ), không khí linh thiêng (đốt lò hương, so tơ phím của người xưa để lại) hình ảnh phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió...) Tất cả đều nói lên rằng Kiều tiếp tục khổ đau và càng khổ đau gấp bội.

Theo đà nửa tỉnh nửa mê, đang nói chuyện với Vân, Kiều bỗng nói một mình, nói với mình về sự dở dang duyên phận. Đúng là cảnh trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi. Đúng là phận bạc như vôi và đành phải chấp nhận cảnh nước chảy hoa trôi lỡ làng mà trái tim như tan ra từng mảnh. Nàng đành chịu tội với chàng Kim, đành gửi chàng muôn nghìn cái lạy. Đau đớn quằn quại đến mức Kiều phải nấc lên:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang

Thôi thôi! Thiểp đã phụ chàng từ đây

Tiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định một lần nữa mặc cảm có tội của Kiều. Nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì đã nói với Vân, những gì đã làm cho chàng Kim, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảnh khắc trên kia .Nghĩa là nàng tuy có đau thêm cho mình nhưng vẫn một mực đau cho người, vì người. Nỗi đau không đơn giản mà tăng lên gấp bội. Nàng gọi tên chàng Kim như trong cơn mê sảng. Nỗi đau đã lên đến tột đỉnh, quá sức chịu đựng của thể xác:

Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.

Đoạn thơ là một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng con người tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thân mình? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu. Tâm hồn vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người đằm thắm sâu xa, muốn cho người được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều.




5.Hãy phân tích đoạn thơ từ câu Dù em nên vợ nên chồng đến hết đoạn Trao duyên


Kiều nói với em bằng tiếng nói khác. Ngôn ngữ của nàng lúc này không còn cái mạch lạc, khúc chiết của lí trí nữa mà thuần là của tình cảm và có cả ảo giác. Càng nói, Kiều càng xót xa cho duyên phận bất hanh của mình. Nàng thấy rõ là mình mệnh bạc, tình mình mất đi và tất cả đã thành quá khứ.

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên!

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời,

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Đã động đến tương lai chắc chắn là mù mịt, Kiều không còn giữ được sự yên lòng trong phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu. Kiều chới với không biết bám víu vào đâu. Nàng tưởng tượng đến lúc Thúy Vân và Kim Trọng nên vợ nên chồng, còn mình chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây, nhưng vẫn còn vướng chặt với tình riêng, vấn vương với tiếng tơ trên phím đàn và mảnh hương nguyền ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu để đền nghì trúc mai cho người. Nghĩ đến đây, Thúy Kiều tha thiết dặn em hãy rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Tất cả những điều ấy có mâu thuẫn với nhau không?

Trên kia, Thúy Kiều đã chẳng nói là nếu được Thúy Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn, nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thế mà chì sau giây lát tưởng tượng, nàng đã trở lại với nỗi xót xa, tuyệt vọng còn nặng nề hơn trước. Chút yên lòng đã bay đâu mất.

Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vì người. Nay, lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng chới với trước tương lai mù mịt, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường mà như nửa mê nửa tình, nửa phần là người sống, nửa phần đã là hồn ma. Tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng lời Kiều đã phảng phất giống như lời nói từ cõi bên kia vọng về.

Khi đã trao duyên cho Thúy Vân, tức là đã quyết định dứt tình với Kim Trọng, Kiều thấy hạnh phúc của mình đến đây là chấm dứt nên lời lẽ của nàng chuyển hẳn sang giọng thương thân. Nghĩ đến tương lai, Kiều tưởng tượng ra cái chết và cảnh oan hồn mình sẽ tìm về theo ngọn gió. Giọng thơ cũng bất chợt thay đổi. Hình ảnh, âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ), không khí linh thiêng (đốt lò hương, so tơ phím hình ảnh phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây — hiu hiu gió)... tất cả đều nói lên rằng Kiều đang sống trong tâm trạng khổ đau và càng khổ đau gấp bội.

Nghĩ đến tương lai thê thảm, Kiều đau đớn tột cùng. Nàng quên hết xung quanh, chỉ còn nức nở khóc cho mình, khóc cho mối tình đầu đẹp đẽ là thế mà sao ngắn ngủi:

Bây giờ trâm gãy, gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Đó là tiếng khóc thương cho số phận bất hạnh, là tiếng kêu đứt ruột cho mối tình đầu dang dở của Thúy Kiều.

Từ chỗ nói với em, Kiều chuyển sang nói với mình, nói với người yêu, từ giọng đau đớn chuyển thành tiếng khóc than. Điều ấy thể hiện sự chuyển biến của tâm trạng Thúy Kiều mà nỗi đau cứ tăng lên mãi, đau đớn cho phận bạc như vôi, càng đau đớn do phận bạc nên buộc phải phụ tình người yêu:

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Theo đà nửa tình nửa mê, đang nói chuyện với Vân, Kiều bỗng nói với mình, nói với Kim Trọng trong tâm tưởng về sự dở dang duyên phận. Đúng là cảnh trâm gãy bình tan, ta duyên ngắn ngủi. Đúng là phận bạc như vôi và nàng đành phải chấp nhận cảnh nước chảy hoa trôi lỡ làng mà trái tim như tan ra từng mảnh. Nàng đành chịu tội với chàng Kim, và gửi vọng theo chàng muôn nghìn cái lạy. Đau đớn, xót xa đến mức Kiều phải thốt lên:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Tiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định một lần nữa mặc cảm có tội của Kiều Nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì đã nói với Vân, những gì đã lo cho chàng Kim, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảng khắc trên kia. Nghĩa là nàng tuy có đau thêm cho mình nhưng vẫn cứ một mực đau cho người, vì người. Nỗi đau khống giảm mà tăng lên gấp bội. Nàng gọi tên chàng Kim như trong cơn mê sảng. Nỗi dau đã lên đến tột đỉnh, quá sức chịu đựng của thể xác:

Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.

Đoạn thơ trên miêu tả một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thần mình? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu. Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người yêu đằm thắm sâu xa, mong muốn cho người yêu được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đă gây xúc động thật sự trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều, khiến cho hình tượng khả ái của nàng sống mãi với thời gian.





6. Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm)


Các yếu tố ngoại cảnh thể hiện tâm trạng người chinh phụ và ý nghĩa diễn tả nội tâm của các yếu tố đó.
Trong đoạn trích, tác giả dùng một số yếu tố ngoại cảnh là ngọn đèn, tiếng gà gáy và cây hòe. Các yếu tố ngoại cảnh được đưa ra không phải để miêu tả hay kể lại sự việc gì mà nhằm thể hiện tâm trạng của người chinh phụ trong hoàn cảnh một mình một bóng.

+ Hình ảnh ngọn đèn.

Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?

Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đền kia với bóng người khá thương!

Vò võ suổt năm canh trường trong ngóng đợi, khát khao, chinh phụ muốn có bạn để giải tỏa nỗi niềm. Người bạn duy nhất là ngọn đèn nhưng lại là vật vô tri vô giác. Nỗi niềm bi thiết chẳng biết san sẻ cùng ai:

Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Và trớ trêu thay, ngọn đèn kia càng khơi sâu thêm nỗi niềm cô đơn của nàng:

Hoa đèn kia với bóng người khá thương!

Tác giả tả đèn là để tả sự cô đơn của con người. Biện pháp này khá phổ biến trong văn học trung đại. Có thể tìm thấy khá nhiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.

- Một mình nàng ngọn đèn khuya,

Áo dầm giọt lệ tóc se mái đầu.

(trước khi Kiều trao duyên cho Vân).

- Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

(Kiều ở lầu Ngưng Bích)

- Người vào chung gối loan phòng,

Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài.

(Kiều sau khi bị Hoạn Thư hành hạ cùng Thúc Sinh)

+ Tiếng gà gáy

Gà eo óc gáy sương năm trống

Âm thanh tiếng gà gáy được miêu tả: eo óc chứng tỏ không gian im lìm, vắng vẻ. Đây là nghệ thuật dùng cái động để thể hiện cái tĩnh. Tiếng gà gáy chỉ làm tăng thêm ấn tượng tịch mịch, im ắng.

+ Cây hòe.

Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.

Hình tượng hòe phất phơ và rủ bóng bốn bên gợi cảm giác về sự thưa thớt, hoang vắng, tô dậm thêm nỗi cô đơn của người chinh phụ. Cô đơn đến đáng sợ.

2. Những dấu hiệu cho thấy nỗi cô đơn của người chinh phụ.

Người chinh phụ cô đơn đến tuyệt đối. Nỗi cô đơn thấm đẫm trong nhiều hình ảnh thơ.

Nàng dạo hiên thì hiên vắng, một mình âm thầm gieo từng bước. Chinh phụ hết đứng (dạo hiên) lại ngồi. Mong hình bóng người mà chẳng thấy thước (chim khách) mách tin. Nàng cô đơn trong không gian và thời gian: lẻ loi khi ở trong nhà, một mình lúc dạo gót ngoài hiên; ban ngày nàng cô đơn ban đêm nàng một mình một bóng. Chỉ có ngọn đèn duy nhất có thể làm bạn nhưng lại là vật vô tri vô giác, không thể giúp nàng vơi đi nỗi cô đơn, trái lại càng khơi sâu thêm sự lẻ loi, đơn chiếc: Hoa đèn kia với bóng người khu thương. Cô đơn đến mức buồn rầu nhưng không thể nào giải tỏa được nỗi niềm nên càng cô đơn hơn Buồn rầu nói chẳng nên lời. Nỗi cô đơn đằng đẵng trong thời gian.

Khắc giờ đằng đẵng như niên.

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Những dấu hiệu trên liên tục xuất hiện trong nhiều dòng thơ nối tiếp nhau có tạc dũng tô đậm nỗi niềm cô đơn của người chinh phụ. Không ai cô đơn như nàng! Nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của nhà thơ thật tài tình!

3. Vì sao người chinh phụ đau khổ.

Qua diễn biến tâm trạng của người chinh phụ, ta thấy nàng đau khổ vi phải sống trong cảnh chồng biền biệt nơi chiến trận, không có tin tức, không rõ ngày về. Cả đoạn trích là một thế giới nội tâm đầy khổ đau của nàng. Nàng đau khổ vì cô đơn, vì tha thiết mong muốn được sống trong tình yêu lứa đôi.

Người chinh phụ đau khổ vì cô đơn trong sự mong ngóng tin chồng mà vẫn bặt vô âm tín (xem phần trả lời ở câu 1 và câu 2).

Nàng khổ đau khiến nét mặt đượm một nỗi buồn, đôi mắt đẫm lệ. Sự đau khổ đã kết đọng thành nỗi buồn rầu, mối sầu não:

Buồn rầu nói chẳng nên lời

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa

Nàng đau khổ đến chán chường, lòng dạ tâm trí lan man Hương gượng đốt hồn đà mê mải cô đơn, nàng càng khát khao hạnh phúc lứa đôi. Nàng gượng gảy đàn sắt cầm nhưng dây chùng hay đứt là báo điềm gở. Nghĩa là nàng lo sợ cho tính mạng người chồng ngoài chiến trường xa. Sự lo lắng, sợ hãi cũng chính là nỗi đau khổ của chinh phụ.

Nguyên nhân sâu xa dẫn đến nỗi đau khổ của người chinh phụ chính là cuộc chiến tranh, vì nó mà vợ chồng nàng phải xa nhau, người chồng có thể bỏ thây nơi chiến địa. Chiến tranh phong kiến phi nghĩa làm cho bao gia đình tan nát, bao hạnh phúc tiêu tan. Bi kịch của người chinh phụ có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa một cách mạnh mẽ và sâu sắc.

4. Nhạc điệu của thể thơ song thất lục bát trong đoạn trích.

Song thất lục bát là thể thơ do người Việt Nam sáng tạo nên. Trong tác phẩm nói chung và trong đoạn trích này nói riêng, thể thơ đã đáp ứng được yêu cầu diễn tả nội tâm nhân vật triền miên trong nhớ nhung, cô đơn, đau khổ. Nhịp ở các câu 7 chữ chủ yếu là 3/4 các câu lục bát được ngắt theo nhịp chẵn tạo nên âm điệu đều đều. Hai mươi tư câu thơ có 168 chữ thì chỉ có 59 chữ mang thanh trắc. Hai phần ba số chữ mang thanh bằng đã góp phần tạo nên giọng thơ trầm, buồn, mênh mang... Yếu tố nhạc điệu trong thơ đã phục vụ đắc lực cho việc diễn tả tâm trạng của người chinh phụ: thở than, nhớ nhung, cô đơn, đau khổ triền miên.



  


Bình luận văn minh lịch sự là động lực cho tác giả. Nếu gặp chương bị lỗi hãy "Báo lỗi chương" để BQT xử lý!
Sau khi sửa lỗi kết quả sẽ cập nhật tại trang Truyện mới cập nhật